Doanh nghiệp cạnh tranh công bằng
(ĐBNDO)- Việc đẩy mạnh xã hội hóa công tác duy tu và bảo trì đường bộ không chỉ tạo sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp có điều kiện năng lực khi tham gia đấu thầu. Đồng thời, còn giúp tiết kiệm chi phí cho Quỹ bảo trì đường bộ từ ngân sách nhà nước. Có thể thấy việc tiến hành đấu thầu 131 gói thầu bảo dưỡng đã tiết kiệm được trên 70 tỷ đồng, bằng 6,5% giá dự toán là một minh chứng.
- Thưa Ông, công tác quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ thời gian qua đã cho những kết quả bước đầu?
VỤ TRƯỞNG LÊ HỒNG ĐIỆP: Hiện nay, đối với hệ thống đường quốc lộ, công tác quản lý, bảo trì do Tổng cục Đường bộ Việt Nam thực hiện. Còn với đường tỉnh, đường đô thị và đường địa phương do các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện.
Nhờ sự phân cấp trên nên công tác triển khai duy tu, bảo trì đã phát huy hiệu quả. Nhờ đó hệ thống đường bộ đã góp phần phục vụ vận tải khoảng 70% khối lượng hàng hóa và khoảng 90% khối lượng hành khách, đáp ứng cơ bản nhu cầu đi lại của nhân dân, lưu thông kinh tế, giao lưu văn hóa xã hội và góp phần đảm bảo quốc phòng an ninh.
Để có được kết quả trên, Tổng cục Đường bộ Việt Nam và các cơ quan quản lý đường bộ đã hoàn thành đấu thầu toàn bộ công tác quản lý, duy tu bảo dưỡng quốc lộ mà trước năm 2014 chủ yếu còn đặt hàng. Các dự án sửa chữa định kỳ năm 2016 đã được chuẩn bị các thủ tục từ năm 2015, để tiến hành thi công đồng loạt từ đầu năm 2016.
Kết quả tính đến hết quý I.2016 đã hoàn thành trên 50% tổng khối lượng sửa chữa đường bộ có trong kế hoạch 2016. Tỷ lệ đường địa phương đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật và tỷ lệ cứng hóa đường nông thôn ngày càng cao. Qua đó góp phần vào Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
- Còn với việc bảo trì, duy tu cầu trên hệ thống đường bộ thì sao, thưa Ông ?
VỤ TRƯỞNG LÊ HỒNG ĐIỆP: Đến nay, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã tiến hành rà soát phân loại cầu theo khả năng chịu tải trọng, qua đó xác định còn 861 cầu/5869 cầu cần cắm biển hạn chế tải trọng. Đây là một nỗ lực lớn nhằm giúp cho khối kinh doanh vận tải chủ động lập phương án vận tải chủ động, linh hoạt và tiết kiệm chi phí và cũng là góp phần giảm chi phí vận tải.
Ngay trong tháng 4.2016, Tổng cục Đường bộ Việt Nam cũng đã rà soát và báo cáo Bộ Giao thông Vận tải các cầu cần xây dựng trụ chống va xô, cầu hạn chế về tĩnh không thông thuyền trên các tuyến đường thủy nội địa.
Qua rà soát cho thấy: đa số cầu cần xây dựng bổ sung trụ chống va xô là các công trình cầu cũ chưa thiết kế theo tải trọng va xô của tàu thuyền. Trong đó có đề xuất ưu tiên xây dựng trụ chống va xô cho 8 cầu, với 2 cầu trên đường BOT và 6 cầu khác trên quốc lộ bảo trì bằng vốn Nhà nước. Một số cầu cần điều tiết giao thông đường thủy hoặc bổ sung biển báo hiệu đường thủy. Đồng thời, Tổng cục Đường bộ Việt Nam cũng đã công bố khổ giới hạn của đường bộ cho các xe quá khổ lập phương án lưu thông.
- Thưa Ông việc triển khai ứng dụng khoa học công nghệ cho lĩnh vực này đã được chú trọng ?
VỤ TRƯỞNG LÊ HỒNG ĐIỆP: Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác duy tu bảo trì luôn được chú trọng. Năm 2016, Tổng cục Đường bộ đã triển khai ứng dụng công nghệ bảo trì mặt đường và chống thấm mặt cầu của Nhật Bản; Công nghệ xử lý và gia cố đất nền đường HRB tại Quốc lộ 14C ở Tây Nguyên; Các công nghệ bảo trì định kỳ lớp mặt đường bằng vật liệu Microsufacing của Pháp và Tây Ban Nha, bảo trì định kỳ và vá ổ gà bằng vật liệu TL2000 của Ixraen...
Đặc biệt với sự hỗ trợ của Hàn Quốc, Trung tâm quản lý điều hành giao thông thông minh (ITS) của đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Trung Lương đặt tại TP Hồ Chí Minh đã hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng từ năm 2015 để quản lý, điều hành giao thông trên tuyến cao tốc này. Trong tương lai, Trung tâm ITS trên sẽ là đầu mối quản lý, điều hành các tuyến đường cao tốc ở khu vực phía Nam.
Hiện nay, việc quản lý và khai thác hệ thống thông tin cầu VBMS đã ứng dụng bằng công nghệ và vốn ODA của Nhật Bản. Qua đó cung cấp các thông tin quản lý cầu cho các cơ quan quản lý, để phục vụ quản lý, bảo trì và khai thác cầu. Dự án tăng cường năng lực bảo trì giai đoạn II do Nhật Bản tài trợ. Theo đó sẽ bao gồm thu thập thông tin mặt đường PMS trên hệ thống quốc lộ; tiến hành thử nghiệm công nghệ bảo trì của Nhật Bản tại các tuyến quốc lộ và cầu trên quốc lộ.
- Những khó khăn trong triển khai công tác duy tu bảo trì đường bộ đang ở ngay phía trước ?
VỤ TRƯỞNG LÊ HỒNG ĐIỆP: theo tôi khó khăn đầu tiên trong triển khai công tác duy tu, bảo trì đường bộ là vốn dành cho bảo trì quốc lộ còn thiếu khoảng 55% so với nhu cầu; Vốn bảo trì đường tỉnh, đường đô thị cũng còn thiếu nhiều. Đặc biệt vốn bảo trì đường giao thông nông thôn rất khó khăn, nhất là ở các địa phương thu ngân sách thấp.
Thứ hai, trình độ khoa học công nghệ bảo trì những năm qua, nhất là trên hệ thống quốc lộ, đường cao tốc và đường đô thị đã cao hơn trước, nhiều giải pháp vật liệu, thiết bị công nghệ mới đã được ứng dụng. Tuy nhiên công tác bảo trì vẫn cần đẩy mạnh áp dụng các giải pháp khoa học, công nghệ và hàm lượng cơ giới hóa cao hơn; trang, thiết bị phục vụ quản lý bảo trì rất thiếu so với nhu cầu, thấp hơn với các nước phát triển khá nhiều.
Thứ ba, hệ thống quản lý cấp huyện thiếu cơ quan chuyên môn quản lý về giao thông. Cấp xã quản lý đường xã, đường thôn xóm nhưng không có cơ quan thực hiện nhiệm vụ này. Trên hệ thống đường quốc lộ, đường tỉnh, đường đô thị và cả các tuyến đường cao tốc nguồn nhân lực cho công tác bảo trì ở nước ta ít hơn so với các nước phát triển khá nhiều. Kết luận này được rút ra khi so sánh số nhân lực bảo trì đường cao tốc và quốc lộ chính ở Việt Nam so với các nước Đông Bắc Á. Chưa kể chất lượng và cơ cấu nhân lực chưa hợp lý so với các nước. Cụ thể như công tác quản lý vận hành hầm đòi hỏi phải có kỹ sư chuyên môn về điện, thiết bị hầm nhưng hiện nay việc đào tạo ở trường đại học chưa có các chuyên ngành này, nên thực tế đang phải lấy từ chuyên ngành khác. Đồng thời tại các cơ quan quản lý cũng chưa có nhiều kỹ sư về điện, thiết bị.
Thứ tư, Việt Nam không có động đất lớn ảnh hưởng đến cầu đường, nhưng các nguyên nhân thời tiết khắc nghiệt với nhiệt độ rất cao của mùa hè, băng tuyết những năm gần đây ở vùng núi phía Bắc, đặc biệt mưa, bão, lũ, lụt là các nguyên nhân tác động xấu đến chất lượng cầu đường và công tác bảo trì.
Thứ năm, Hạ tầng giao thông đường bộ thường phải bảo vệ, ngăn ngừa vi phạm từ các tổ chức, cá nhân do thường có hành vi đấu nối trái phép vào đường bộ và xả nước, đổ chất thải ra lề, rãnh đường bộ gây mất vệ sinh môi trường và làm tắc hệ thống thoát nước.
|
- Việc xã hội hóa công tác duy tu, bảo trì hệ thống quốc lộ đã mang lại hiệu quả, thưa Ông ?
VỤ TRƯỞNG LÊ HỒNG ĐIỆP: việc xã hội hóa công tác bảo trì, duy tu đường bộ là thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, quy định của Nhà nước. Thời gian qua công việc này đã đạt được nhiều kết quả. Cụ thể là đã tạo sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp có điều kiện năng lực thì có cùng cơ hội khi tham gia đấu thầu- đây cũng là động lực cho phát triển kinh tế.
Cùng với đó việc xã hội hóa đã giúp tiết kiệm chi phí cho Quỹ bảo trì đường bộ, đây cũng là một nguồn của Ngân sách nhà nước. Thông qua đấu thầu 131 gói thầu bảo dưỡng đã tiết kiệm được trên 70 tỷ đồng, bằng 6,5% giá dự toán.
Bên cạnh đó, việc xã hội hóa đã thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư khoa học kỹ thuật, công nghệ và thiết bị trong lĩnh vực bảo trì. Trước khi đấu thầu chưa có công ty nào mua máy cào bóc, rất ít công ty có máy quét đường nhưng đến nay đa số các công ty quản lý các tuyến đường huyết mạch đã có máy cào bóc mặt đường, máy quét đường. Một số doanh nghiệp đã liên kết sản xuất vật liệu làm mặt đường …
Cũng thông qua xã hội hóa bảo trì, duy tu mà các công ty có thêm động lực để cổ phần hóa, thay đổi bộ máy điều hành theo hướng năng động hơn.
- Xin cám ơn Ông !