Đình Chèm kiến trúc độc đáo bên sông Hồng
Đình Chèm, huyện Từ Liêm, Hà Nội, thờ nhân vật huyền thoại Lý Ông Trọng (Lý Thân). Đây là một công trình kiến trúc có nghệ thuật chạm khắc độc đáo.

Chèm (có thuyết cho rằng phải viết là Trèm) là tên nôm, tên chữ là Thụy Điềm, sau đổi là Thụy Hương, rồi lại đổi là Thụy Phương. Các nhà ngôn ngữ đã truy nguồn gốc từ Chèm, Trèm, tiếng Việt cổ là T’lem, và cho rằng đó là nguồn gốc tạo nên tên gọi vùng đất Từ Liêm. Theo sách Minh đô sử thì từ đời Hán, hương Từ Liêm rất rộng, là vùng đất nằm giữa sông Hồng ở phía Bắc và phía Đông, sông Hát (tức sông Đáy) ở phía Tây. Tên gọi Từ Liêm là đơn vị hành chính cấp huyện thì từ thế kỷ thứ VII. Như vậy, Chèm là một làng rất cổ và từ tên làng mà thành tên của huyện Từ Liêm được thành lập năm Vũ Đức thứ tư, 621, thuộc Từ Châu.
Từ thuở xa xưa, người dân vùng Chèm cư trú trên dải đất rất cổ này, xây dựng đời sống và cũng tạo nên nhiều huyền tích. Lịch sử vùng đất Từ Liêm nói chung và Chèm nói riêng có truyền thuyết về Lý Ông Trọng. Vào cuối thời Hùng Vương ở làng Chèm có người họ Lý tên Thân, hiệu là Ông Trọng. Ông có vóc dáng khổng lồ, nổi tiếng cả 3 nước âu Lạc, Tần và Hung Nô. Đến đời An Dương Vương, nước ta có giặc Tần xâm lược, Lý Ông Trọng theo An Dương Vương đánh thắng quân Tần. Về sau, Lý Thân được cử đi sứ nhà Tần. Ở nước Tần, ông được cử cầm quân đi đánh Hung Nô. Thắng trận, Vua Tần phong Lý Thân chức Tư Lệ Hiệu Úy và gả công chúa cho và giữ ở lại nước Tần. Nhưng Lý Thân nhất quyết về lại quê nhà, công chúa nước Tần cũng theo về sống với ông ở Chèm. Họ có 6 người con. Khi Lý Thân qua đời, dân làng Chèm lập miếu thờ. Sau nữa, miếu thờ Ông Trọng được sửa thành đền thờ, và dân tôn ông làm thành hoàng của 3 làng là: làng Chèm cùng làng Hoàng Xá và làng Hoàng Liên thuộc xã Liên Mạc cạnh xã Thụy Phương.
Trải qua nhiều đời, ngôi đền thờ Lý Ông Trọng trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng dân cư, nơi tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm, vào các ngày 13, 14 và 15.5 âm lịch. Bởi thế, đền thờ Lý Ông Trọng thở thành Đình Chèm. Theo sách Việt điện u linh cũng như ngọc phả của đình thì đình Chèm được xây dựng từ thế kỷ thứ VII. Từ khi khởi dựng đến nay, do tọa lạc trên khu đất sát kề bờ sông Hồng, nên hàng năm, vào mùa mưa lũ, đình Chèm luôn bị ngập lụt. Đình Chèm đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa lớn và mở rộng. Theo văn bia tại đình và dòng chữ Hán ghi trên thượng lương thì tòa Hậu cung được xây dựng năm Long Đức thứ 3 (1631) và được trùng tu năm Quang Trung thứ 5 (1792) năm Cảnh Thịnh thứ nhất (1793); tòa Đại bái được sửa chữa năm Cảnh Thịnh thứ 5 (1797)... Đặc biệt vào những năm 20 của thế kỷ XX, dân vùng Chèm đã tiến hành một việc quan trọng và táo bạo là nâng toàn bộ ngôi đình lên cao! Kíp thợ thủ công của làng Diễn Văn Trì, Từ Liêm do thợ cả Vương Đình Địch chỉ huy, bằng những bàn tay và khối óc, đã lập nên một kỳ tích: Toàn bộ kiến trúc của đình được kiệu lên, tạo một nền mới cao hơn nền cũ 2,4m! Đến nay, tất cả kiến trúc của đình Chèm vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn, từ bố cục đến kiểu dáng cả một tổng thể những di tích cổ kính nằm hài hòa trong một không gian rộng thoáng, bên sông Hồng.
Trong Đình Chèm hiện còn lưu giữ một lượng lớn di vật lịch sử quý, như: 16 cuốn sách chữ Hán và một số đạo sắc phong; 4 tấm bia đá, trong đó bia dựng năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740) là cổ nhất; 2 quả chuông đồng, 15 câu đối, 8 hoành phi; 2 pho tượng Thánh ông, Thánh bà cao 3,2m và 8 pho tượng tròn to bằng người thật... Đặc biệt, hệ thống máng nước bằng đồng thau của đình Chèm là di vật chưa thấy có ở di tích tôn giáo nào. Trên máng có dòng chữ Hán ghi niên đại Cảnh Hưng và Cảnh Thịnh. Nhang án gỗ rất lớn Đình Chèm là một công trình chạm khắc điển hình của nghệ thuật thế kỷ XVII và đôi áp quả cũng là nghệ thuật tạo tác gỗ của thế kỷ XVII...
Đình Chèm thực sự là một địa chỉ văn hóa đặc sắc, có sức hấp dẫn dân thập phương. Từ khi cầu Thăng Long bắc qua sông Hồng, Hà Nội có thêm một tuyến du lịch là tuyến Chèm - Cổ Loa như gợi nhớ những năm tháng hào hùng rất xa xưa trong lịch sử dân tộc Việt, thời kỳ An Dương Vương dựng nước.