Nguyên Giám đốc Chi nhánh ngân hàng “tố” Văn phòng công chứng vi phạm quy tắc hành nghề (Kỳ 2)

- Thứ Tư, 24/08/2022, 16:05 - Chia sẻ

Kỳ trước, Báo Đại biểu Nhân dân đã thông tin đến Quý độc giả vụ việc nguyên Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng tố một Văn phòng Công chứng tại Thành phố Đà Nẵng vi phạm luật công chứng và Quy tắc hành nghề công chứng trong quá trình thực hiện các Hợp đồng tặng cho. Tại kỳ này, chúng tôi sẽ tóm lược những nhận định trong hai bản án để làm rõ những vấn đề pháp lý xoay quanh nội dung vụ việc trên.

Nguyên Giám đốc Chi nhánh ngân hàng “tố” Văn phòng công chứng vi phạm quy tắc hành nghề (Kỳ 2) -0
Tầng 1 của Văn phòng Công chứng Phước Nhân, số 696 đường Nguyễn Hữu Thọ, phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

Văn phòng Công chứng Phước Nhân đã vi phạm quy định của Luật Công chứng

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 47/2021/DS-ST ngày 23.9.2021 của TAND TP. Đà Nẵng ghi nhận lời trình bày của ông Trường:“ông Trường thừa nhận chữ ký tại hai hợp đồng tặng cho ngày 08 tháng 05 năm 2014 và ngày 21 tháng 5 năm 2014 là do ông Trường ký ra nhưng khi ký 03 hợp đồng tặng cho nói trên, ông Trường và bà Nhi đều không có mặt tại Việt Nam”.

Quan điểm của hai cấp xét xử về xác định lỗi và bồi thường thiệt hại:

Trong vụ án này, sau khi nhận tặng cho nhà đất tại 52B Thanh Sơn theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 08.05.2014, chị Nhi đã tặng cho lại bà Nga nhà đất này. Bà Nga tiếp tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác. Vậy, ông Trường yêu cầu bà Nga và Văn phòng Công chứng Phước Nhân bồi thường thiệt hại mỗi bên 50% đối với việc chuyển nhượng thửa đất này.

Bản án sơ thẩm xác định, văn phòng Công chứng Phước Nhân có lỗi nhiều hơn so với bà Nga và tỷ lệ mỗi bên 50% là ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Nga. Do đó, bà Nga và Văn phòng Công chứng Phước Nhân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Trường theo tỷ lệ bà Nga bồi thường 40%, văn phòng Công chứng Phước Nhân bồi thường 60%.

Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã đưa ra nhận định: “Văn phòng Công chứng Phước Nhân công chứng các hợp đồng tặng cho trong khi người tặng cho là ông Bùi Hồng Trường và người được tặng cho là bà Bùi Thị Yến Nhi đều không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm công chứng là vi phạm Điều 48 (ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng) của Luật Công chứng”.

Đồng quan điểm với nhận định trong Bản án sơ thẩm, tại Bản án phúc thẩm số 91/2022/DSPT ngày 06.4.2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm cũng nhận định rằng việc Văn phòng Công chứng Phước Nhân công chứng các hợp đồng tặng cho trong khi người tặng cho là ông Bùi Hồng Trường và người được tặng cho là chị Bùi Thị Yến Nhi đều không có mặt tại Việt Nam là vi phạm quy định của Luật Công chứng.

Vì vậy, cả hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đều quyết định tuyên vô hiệu 03 Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 08.5, 14.5 và 21.5.2014 giữa bên tặng cho là ông Bùi Hồng Trường – bà Hồ Thị Kim Nga với bên được tặng cho là bà Bùi Thị Yến Nhi. Đồng thời, tuyên hủy các chỉnh lý biến động đối với 02 thửa đất tại địa chỉ 98A Thanh Hải, 330-332 Lê Duẩn và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với thửa đất tại 52B Thanh Sơn.

Luật sư: “Công chứng viên Mai Thị Nhân có rất nhiều sai phạm…”

Nguyên Giám đốc Chi nhánh ngân hàng “tố” Văn phòng công chứng vi phạm quy tắc hành nghề (Kỳ 2) -0
Luật sư Phạm Quang Xá

Trao đổi với phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân, Luật sư Phạm Quang Xá, Giám đốc Công ty luật TNHH XTVN (Đoàn luật sư TP. Hà Nội) cho rằng, công chứng viên Mai Thị Nhân, Trưởng Văn phòng công chứng Phước Nhân đã có rất nhiều sai phạm trong quá trình thực hiện công chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bà Hồ Thị Kim Nga và ông Bùi Hồng Trường.

Thứ nhất: bà Nhân công chứng hợp đồng khi không có mặt đầy đủ các bên tham gia hợp đồng tại văn phòng công chứng là vi phạm khoản 1 Điều 39 Luật Công chứng năm 2006 về địa điểm công chứng. Theo đó,“Việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”.

Ngoài ra, khoản 1 Điều 41 Luật Công chứng 2006 quy định về ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng như sau: “Người yêu cầu công chứng, người làm chứng phải ký vào văn bản công chứng trước mặt công chứng viên.”

Tuy nhiên, theo Bản án sơ thẩm số 47/2021/DS-ST ngày 23.9.2021 của TAND TP Đà Nẵng và Bản án phúc thẩm số 91/2022/DS-PT ngày 06.4.2022 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, thì thời điểm từ ngày 05.9.2013 đến ngày 25.7.2014 ông Bùi Hồng Trường không có mặt tại Việt Nam và từ ngày 27.7.2012 đến ngày 30.12.2014 chị Bùi Thị Yến Nhi không có mặt tại Việt Nam.

“Do đó, trường hợp công chứng viên Mai Thị Nhân công chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trong khoảng thời gian ông Trường và chị Yến Nhi không có mặt tại Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng quy định của khoản 1, Điều 39 và khoản 1, Điều 41, Luật Công chứng năm 2006”.

Thứ hai: Công chứng viên Mai Thị Nhân thiếu trách nhiệm trong quá trình hành nghề công chứng, không thực hiện đúng và đầy đủ quy trình công chứng theo quy định của Luật Công chứng. Theo Điều 35 và Điều 36, Luật Công chứng năm 2006, quy định về công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu công chứng quy định:“Người yêu cầu công chứng có trách nhiệm cung cấp bản sao giấy tờ tùy thân,… Khi thực hiện công chứng, công chứng viên có nghĩa vụ hướng dẫn người yêu cầu công chứng tuân thủ đúng các quy định về thủ tục công chứng và các quy định pháp luật có liên quan đến việc thực hiện Hợp đồng. … hướng dẫn những người tham gia xác lập hợp đồng cùng ký vào hợp đồng trước mặt công chứng viên”.

Tuy nhiên trong hồ sơ vụ án (tại bút lục số 326), Đơn trình bày của bà Mai Thị Nhân ngày 18.10.2021 gửi TAND TP Đà Nẵng cho biết: “Khi xuất trình đầy đủ các giấy tờ như yêu cầu cùng với các nội dung được thỏa thuận, chuyên viên mới soạn thảo văn bản thể hiện tất cả các điều khoản các bên thống nhất và tiến hành lấy chữ ký, lăn dấu vân tay. Sau đó chuyển đến công chứng viên đối chiếu dấu vân tay và chữ ký. Tuy nhiên, khi tiếp nhận các hợp đồng tặng cho, công chứng viên chủ quan, các hợp đồng này chỉ mang tính chất tặng cho tài sản nội bộ gia đình (cha mẹ tặng cho con ruột) nên đã không kiểm tra kỹ.”

“Là người được cấp phép hành nghề công chứng, bà Nhân bắt buộc phải biết và có nghĩa vụ thực hiện đúng những yêu cầu mà công chứng viên phải thực hiện theo quy định của Luật Công chứng, nhưng những điều bà Nhân đã làm khi thực hiện các hợp đồng tặng – cho nêu trên là hành vi cố tình vi phạm Luật Công chứng năm 2006” - Luật sư Xá nêu quan điểm.

Ngân Anh
#