Điều tiết vĩ mô
Trong bối cảnh hiện nay, nếu nhà nước chỉ tập trung cải thiện các chính sách vi mô liên quan đến những quy định cụ thể về quản trị đối với trường tư thục chắc sẽ không thành công mà đòi hỏi những chính sách điều tiết vĩ mô thích hợp.
Nếu tính suất đầu tư xã hội (công và tư) cho 1 sinh viên quy đổi (tức là bao gồm cả cao học và nghiên cứu sinh với các hệ số tương ứng) thì trong số 20 quốc gia châu Âu có ít nhất 1 trường đại học trong danh mục 500 trường tốt nhất thế giới theo Bảng xếp hạng Đại học Giao thông Thượng Hải khảo sát. Trong đó, Na Uy là 28,4 nghìn USD/sinh viên/năm (cao nhất), Thổ Nhĩ Kỳ 3,21 nghìn USD/sinh viên/năm (thấp nhất, tương đương 7,2 triệu đồng/sinh viên/tháng). Số liệu tương ứng với Vương quốc Anh là 20,26 nghìn USD và Đức 12,21 nghìn USD. |
Những quy định quá cụ thể về quản trị sẽ hạn chế khả năng sáng tạo của nhà trường và tính linh hoạt đáp ứng nhu cầu xã hội. Mặt khác, những chính sách điều tiết không nên ảnh hưởng đến tự chủ đại học (về tổ chức, nhân sự, học thuật và tài chính) là điều mà các trường đại học đều rất mong mỏi hiện nay. Những điều tiết vĩ mô có thể là về nhiệm vụ, về suất đầu tư và về giám sát.
Về nhiệm vụ, do nguồn lực công hạn hẹp, các trường công lập cần được sử dụng cho mục tiêu phục vụ lợi ích công, là những lĩnh vực cần đầu tư nguồn lực mạnh và thị trường không thể đáp ứng, như nghiên cứu cơ bản hay các chuyên ngành có ít người học nhưng cần thiết cho xã hội, những chuyên ngành đòi hỏi có sự hỗ trợ mạnh mẽ của các hoạt động KH - CN hàng đầu để tăng sức cạnh tranh của hệ thống HE Việt Nam. Khu vực công lập, do được bao cấp từ nguồn vốn ngân sách, cũng phải là nơi đáp ứng nhu cầu công bằng về cơ hội tiếp cận HE chất lượng cao. Khu vực tư, chủ yếu là phân khúc hấp thụ nhu cầu, là nơi người học sẵn sàng chịu chi phí với quan điểm coi HE như một sự đầu tư cá nhân có tỷ lệ hoàn vốn tương xứng. Đó là nói trong trường hợp lý tưởng, còn trong thực tế, như Levy đã nhận định, phần lớn chính phủ các nước không có kế hoạch cho sự phân chia này, nó đã và đang được thực hiện thông qua các lực lượng thị trường thì việc Chính phủ điều tiết càng trở nên cần thiết khi mà giáo dục đại học Việt Nam đang phải phát triển trong một nền thị trường không hoàn hảo và do đó ít thành công. Trong bối cảnh cân bằng cung - cầu đang dịch chuyển, xây dựng quy hoạch cơ cấu ngành nghề đào tạo thay vì quy hoạch mạng lưới các trường đại học là công việc cốt lõi cần làm.
Về suất đầu tư, không ít ý kiến từ các học giả và xã hội cho rằng chất lượng HE của Việt Nam thấp có một trong những nguyên nhân chủ yếu là suất đầu tư thấp trong tương quan với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, với tỷ trọng sinh viên áp đảo (85%) thì người chịu trách nhiệm chính về chất lượng HE của Việt Nam phải là các trường công lập. Việc điều tiết vĩ mô suất đầu tư thực tế của các trường đại học cần thiết là rất cần thiết. Thay vì đưa ra các điều kiện gián tiếp, rất nên sử dụng tiêu chí này để giúp cho các trường công lập tự xác định quy mô tuyển sinh và bảo đảm chất lượng. Cách gia tăng chỉ tiêu tuyển sinh tạo điều kiện cho các trường tự chủ không phải là giải pháp đúng, vì như thế đã giảm suất đầu tư cho mỗi sinh viên của các trường giống như trước đây chúng ta đã từng sử dụng hệ mở rộng cho các trường đại học công lập.
![]() Điều tiết vĩ mô suất đầu tư thực tế của các trường đại học rất cần thiết |
Về giám sát, xu hướng tất yếu của phát triển HE Việt Nam là tăng quyền tự chủ cho nhà trường, mặt khác, tự chủ ĐH lại luôn đi kèm với nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm (accountability) của cơ sở GDĐH. Câu hỏi đặt ra là ai trong xã hội thực hiện chức năng kiểm soát theo một cách đáp ứng có hiệu quả nhu cầu của xã hội? Các quy định nhằm kiểm soát trường tư thục lại là một vấn đề nhạy cảm mà các nhà làm chính sách luôn phải tìm kiếm một điểm cân bằng. Những quy định quá chặt chẽ và chi tiết sẽ triệt tiêu năng lực sáng tạo và khả năng thích ứng của các trường với một thị trường đang thay đổi từng giờ. Tuy vậy, việc kiểm soát nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm của các trường vẫn là việc cần làm, để tránh trường hợp như đã xảy ra tại Ấn Độ, nhà nước buộc phải đóng cửa hàng trăm trường ĐH.
Kiểm định và công nhận chất lượng (accreditation) là một trong những công cụ để kiểm soát HE (không chỉ các trường tư thục) được chấp nhận rộng rãi. Ở chừng mực nào đó hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục gắn với chức năng giám sát của Quốc hội. Vì vậy, nâng tầm của các đơn vị kiểm định chất lượng giáo dục độc lập là một công việc cấp bách, cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Tam giác phát triển 3A (autonomy - tự chủ, accountablity - tự chịu trách nhiệm, accreditation - bảo đảm chất lượng - BTV) phải được xem là những yếu tố chính sách trụ cột cho sự phát triển bền vững PHE dựa trên sự cạnh tranh bình đẳng công tư.