Điều cần nhất đối với kinh tế Việt Nam hiện nay
Ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao chất lượng tăng trưởng có lẽ vẫn là điều cần nhất đối với kinh tế Việt Nam trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, nhất là khi mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 được đặt ở mức rất cao, ít nhất 8%, trong khi nền kinh tế đang phải đối diện với nhiều thách thức mới.
Để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, nhất thiết phải duy trì lạm phát, lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý, đảm bảo hệ thống tài chính lành mạnh và nợ công bền vững là điều kiện tiên quyết để tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững. Trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng cao, việc cân bằng giữa tăng trưởng và ổn định vĩ mô sẽ là thách thức lớn nhất.
Tiêu dùng cuối cùng trong nước chiếm khoảng 63% GDP nhưng hiện vẫn tăng trưởng thấp, xuất khẩu vẫn phụ thuộc lớn vào khu vực FDI và thị trường thế giới còn nhiều bất ổn. Chúng ta đã có một số chính sách tốt kích cầu nội địa, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nâng cao giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng có một số chính sách đã ban hành gây nên những xáo trộn không đáng có trên thị trường trong nước trong ngắn hạn do biện pháp, tổ chức thực hiện chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng. Bởi suy cho cùng, chính sách có phát huy được những giá trị tích cực như đã thiết kế hay không phụ thuộc rất nhiều vào cách làm, cách tổ chức thực hiện.

Đầu tư công đang được thúc đẩy mạnh mẽ cùng với cải cách thủ tục, minh bạch và hiệu quả sử dụng vốn thể hiện qua nhiều dự án luật đang được Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung. Theo các chuyên gia và báo cáo kinh tế, đầu tư công có thể đóng góp từ khoảng 1,07 đến 2 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP nếu giải ngân đạt hiệu quả cao. Cụ thể, nếu giải ngân 95% tổng vốn đầu tư công năm 2025, GDP sẽ tăng thêm 1,07 điểm phần trăm, còn nếu giải ngân được 100% là 1,4 điểm phần trăm. Phân tích của VinaCapital cho thấy việc tăng chi đầu tư công lên 40% trong năm 2025 có thể đóng góp khoảng 2 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP do về cơ cấu, đầu tư công chiếm khoảng 30% tổng cơ cấu GDP và khoảng 28% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2025. Tuy nhiên hiện nay khá nhiều dự án chậm tiến độ, giải ngân chậm, chất lượng một số công trình còn có vấn đề, ảnh hưởng tới tác động lan tỏa tích cực tới nền kinh tế.
Khu vực kinh tế tư nhân, đóng góp khoảng 50–51% GDP của cả nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm hơn 82% tổng số lao động có việc làm trong nền kinh tế, đóng góp 56% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước (năm 2024), vừa được Nghị quyết số 68-NQ/TW cổ vũ, khi lần đầu tiên Đảng ta khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân, đồng thời xóa bỏ triệt để mọi định kiến, tạo môi trường bình đẳng, bảo vệ quyền lợi và khuyến khích phát triển, đang có những chuyển động tích cực thể hiện qua việc nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn đang đề xuất, kiến nghị được giao các dự án lớn, quan trọng của quốc gia như đường sắt cao tốc Bắc - Nam, đường sắt nhẹ nội đô, các dự án năng lượng mới, công nghiệp cơ khí chế tạo, luyện kim, công nghiệp công nghệ số, bán dẫn…
Đầu tư vào chuyển đổi số, công nghệ cao, năng lượng tái tạo, công nghiệp xanh là động lực mới cho tăng trưởng và nâng cao sức cạnh tranh dài hạn. Nhà nước ta đã xác định đây là trụ cột để thích ứng với xu hướng quốc tế và nâng tầm nền kinh tế bên cạnh yêu cầu tiếp tục đổi mới tư duy quản lý kinh tế, hoàn thiện đồng bộ các yếu tố thị trường, xóa bỏ rào cản gia nhập thị trường, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho doanh nghiệp cạnh tranh và phát triển. Đặc biệt, cần đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Tất cả những chuyển động đúng hướng đó hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh tồn tại nhiều thách thức lớn, cả về bình diện quốc tế cũng như những yếu kém nội tại của nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy rõ nhu cầu tiêu dùng của thế giới chậm phục hồi do việc làm và thu nhập bị cắt giảm, lạm phát gia tăng, rồi căng thẳng địa chính trị, địa kinh tế, gia tăng xung đột khu vực và xu hướng bảo hộ thương mại. Bên cạnh đó, động lực tăng trưởng nội địa chưa đều, tiêu dùng và đầu tư công còn yếu, xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào FDI khi năm 2024, xuất khẩu của khu vực FDI đạt gần 290,8 tỷ USD, chiếm 71,8% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, còn 5 tháng đầu năm 2025, là 72,5%, nhất là ở các ngành hàng chủ lực như điện thoại, máy vi tính, linh kiện điện tử, máy móc thiết bị, dệt may và giày dép.
Trong khi đó, do biến động giá năng lượng, nguyên liệu nhập khẩu đang tạo ra áp lực lớn lên lạm phát, tỷ giá và chi phí đầu vào của doanh nghiệp Việt Nam, đòi hỏi các chính sách điều hành linh hoạt và đồng bộ để kiểm soát rủi ro vĩ mô và hỗ trợ sản xuất trong nước, nhất là khi chúng ta vẫn phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nhiên liệu (dầu thô, khí đốt, các sản phẩm dầu mỏ), nguyên liệu đầu vào cho sản xuất tăng do phụ thuộc chuỗi cung ứng toàn cầu và thiết bị nhập khẩu phục vụ sản xuất do khan hiếm nguồn cung, đứt gãy chuỗi cung ứng và phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài. Điều này làm chi phí đầu tư và sản xuất tại Việt Nam tăng cao hơn so với nhiều nước khác.
Yêu cầu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng cao cũng tạo ra những thách thức lớn. Ví dụ, do phải đầu tư nhiều hơn vào công nghệ sạch, quy trình sản xuất thân thiện môi trường, xử lý chất thải và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, khiến chi phí sản xuất, vận hành doanh nghiệp tăng lên đáng kể, chưa kể việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, trong khi nguồn lực tài chính trong nước còn hạn chế. Để đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường quốc tế, doanh nghiệp buộc phải đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, nếu không sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu hoặc gặp rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu trong khi nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong tiếp cận công nghệ hiện đại, thiếu nguồn lực để đầu tư đổi mới sáng tạo.
Cũng phải tính đến những rủi ro về môi trường và tài nguyên mà nếu không kiểm soát tốt, quá trình phát triển kinh tế có thể dẫn đến khai thác quá mức tài nguyên, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng và phát triển lâu dài hay nguy cơ Việt Nam trở thành nơi tiếp nhận công nghệ lạc hậu, phế liệu, hàng hóa kém chất lượng nếu không quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu và đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra là các thách thức về thể chế, chính sách bảo vệ môi trường cần tiếp tục hoàn thiện, đồng bộ với các cam kết quốc tế và xu hướng toàn cầu, nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực môi trường, công nghệ xanh còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Việc chuyển đổi mô hình sản xuất có thể khiến một bộ phận lao động giản đơn mất việc, đòi hỏi đào tạo lại, thích ứng với công nghệ mới, dẫn tới áp lực về an sinh xã hội.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài với công nghệ tiên tiến, sản phẩm xanh sẽ tạo sức ép cạnh tranh lớn lên doanh nghiệp trong nước và nếu không đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, hàng hóa Việt Nam sẽ khó tiếp cận các thị trường lớn, nhất là EU, Mỹ, Nhật Bản, là những thị trường có yêu cầu rất cao về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
Tóm lại, điều cần nhất đối với kinh tế Việt Nam hiện nay là giữ vững ổn định vĩ mô, nâng cao chất lượng tăng trưởng thông qua đổi mới mô hình phát triển, thúc đẩy tiêu dùng nội địa, phát triển kinh tế số và xanh, đồng thời cải cách mạnh mẽ thể chế để tạo môi trường thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế phát triển bền vững, nhất là trong quá trình thực hiện bước đi chiến lược sáp nhập các địa phương để tái cấu trúc không gian phát triển kinh tế đang đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, doanh nghiệp và người dân, cùng với việc xây dựng chính sách chuyển đổi hợp lý, hiệu quả.