NHỮNG ÁNH SAO KHUÊ

Nhân sĩ Bùi Bằng Đoàn - quan Thượng thư làm cách mạng

- Chủ Nhật, 08/05/2022, 08:29 - Chia sẻ

NGUYỄN TÚC - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Cụ Bùi Bằng Đoàn là một trong những nhân sĩ yêu nước tiêu biểu được Hồ Chủ tịch, Đảng và Mặt trận dân tộc thống nhất rất trân trọng và đánh giá cao sự đóng góp của cụ vào việc xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xây dựng và củng cố mặt trận dân tộc thống nhất.

Cụ Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 19.9.1889 trong một gia đình có truyền thống nho học tại làng Liên bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc TP. Hà Nội). Cha là Bùi Tập, từng giữ chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa. Cha mẹ mất sớm, cả 6 anh em được người chú dượng là Dương Lâm, lúc đó là tham tri nha kinh lược bắc kỳ đưa về nuôi và cho học chữ Hán. Khoa thi năm Bính Ngọ 1906, ba anh em đều tham dự thi. Kết quả Bùi Bằng Phấn đỗ Tú tài, còn Bùi Bằng Thuận và Bùi Bằng Đoàn đỗ cử nhân. Ba anh em được nêu gương “Hà Đông Tam Bằng”.

Gặp thời Tây thịnh, ông ra sức học tiếng Pháp và phải khai tăng thêm 3 tuổi cho đủ để thi vào trường Hậu bổ Hà Nội (giống như trường hành chính quốc gia hiện nay). năm tân Hợi (1911), ông tốt nghiệp và được bổ nhiệm làm tri huyện, sau đó là tri phủ Xuân Trường (tỉnh Nam Định), Chánh án sát Bắc Ninh, Tuần phủ các tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình, rồi Thượng thư Bộ hình của Triều đình Huế. Ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực và chăm dân. Trên công đường, ở những nơi ông làm quan đều có treo một bảng thông báo “không nhận quà biếu”. Với người trong gia đình, ông rất nghiêm khắc: không ai được phép nhận quà biếu. Nếu đã lỡ nhận thì phải đem trả. Lúc làm Tri phủ Xuân Trường, ông đã đề xuất và thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn lụt, tạo dựng một vùng trồng lúa, trồng dâu rộng lớn và được nhân dân địa phương hết lòng ca ngợi “phụ mẫu chi dân”.

Trước việc báo chí lên án cảnh phu đồn điền ở miền Nam bị bóc lột hết sức dã man, Chính phủ Nam Triều đã cử ông vào thanh tra các đồn điền cao su của Pháp. ông đã thanh tra chu đáo, nêu bật những điểm vô lý trong chính sách đối với công nhân cao su, kiến nghị những giải pháp cần thực hiện. Những kiến nghị của ông được nhà đương cục chấp nhận, giảm thiểu những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.

Bùi Bằng Đoàn là người thông minh xuất chúng. Ông học chữ nho, nhưng lại rất giỏi toán, giỏi tiếng Pháp. Có câu chuyện mà những người yêu nước cùng thời thường truyền lại cho thế hệ sau là: năm 1925, khi đang làm Tri phủ Nghĩa Hưng, Nam Định, do tính chất quan trọng của phiên tòa, ông được mời lên làm thông ngôn (phiên dịch) cho phiên tòa đại hình xử vụ án Phan Bội Châu.

Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, ông đã thông dịch rõ ràng, trung thực với những lời nói, lý lẽ đanh thép của Phan Bội Châu để rồi sau đó tòa án đã không khép Phan Bội Châu vào án chung thân như dự kiến ban đầu mà giảm xuống hình phạt “an trí tại Huế”.

Đầu năm 1933, ông được bổ nhiệm làm Tuần phủ tỉnh Ninh Bình, sau đó được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ Hình.

Tháng 3.1945, Nhật đảo chính Pháp. Vua Bảo Đại xuống chiếu thành lập chính phủ, ông từ chối tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim, cáo quan về quê. Tuy nhiên, Chính phủ Nam Triều đã mời ông ở lại bằng được và giao cho ông giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội.

Sau hơn 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, đầu năm 1941 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về để trực tiếp cùng Trung ương lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người thay mặt cho Quốc tế cộng sản triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (Khóa I) để xem xét lại toàn bộ chiến lược của Đảng và đề ra các chủ trương, quyết sách cách mạng mang tầm cỡ lịch sử. Hội nghị nhận định: Cách mạng Việt Nam lúc này phải là cách mạng giải phóng dân tộc. Để làm tròn nhiệm vụ đó, công việc cốt yếu của Đảng lúc này là phải liên minh tất cả lực lượng của các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc kháng Nhật. trước mắt, tất thảy các yêu sách của bộ phận mà có hại đến quyền lợi của dân tộc thì phải gác lại để giải quyết sau. Hội nghị nhấn mạnh:

“Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc; không thực hiện được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được”.

Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, theo đề nghị của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, nhằm liên hiệp hết thẩy các tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị, giai cấp, tất cả đoàn kết lại để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở, đồng thời phải hết sức giúp đỡ Ai Lao và Cao Miên để cùng thành lập Đông Dương đồng minh. Trong các tầng lớp nhân dân, Việt Minh đặc biệt coi trọng việc vận động các nhân sĩ, trí thức có tên tuổi, những nhân vật có “vai vế” trong chính quyền cũ. Vì vậy, ở thời điểm “cách mạng cận kề”, Việt Nam đã cử người tiếp xúc, mời “Thượng thư Bộ Hình”, “Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội” làm Hội trưởng Hội bảo vệ tù chính trị. Cụ Bùi Bằng Đoàn đã nhận lời đến với Việt Minh, với cách mạng một cách tự nhiên như phẩm chất vốn có trong con người chính trực của Cụ.

Ngày 2.9.1945, Cụ được Tổng bộ Việt Minh mời tham dự Lễ Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại đây, Cụ đã gặp Hồ Chủ Tịch và bác Hồ đã có nhã ý mời Cụ tham gia chính quyền cách mạng. Ngày 17.11.1945, Cụ nhận được thư của Hồ Chủ tịch với lời lẽ hết sức xúc động và cực kỳ khiêm tốn mời Cụ ra gánh vác việc nước. Bức thư viết: “Thưa ngài! Tôi tài đức ít ỏi mà trách nhiệm nặng nề. Thấy ngài học vấn cao siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên tôi muốn mời ngài làm cố vấn cho tôi để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ hại cho nước nhà, dân tộc. Cảm ơn và chúc Ngài mạnh khỏe. Hồ Chí Minh”.

Và ngày 25.11.1945, Cụ được Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh bổ nhiệm chức Thanh tra đặc biệt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đảm nhận chức vụ từ ngày 6.1.1946 đến 8.11.1946. và từ ngày 8.11.1946, Cụ được Quốc hội bầu làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội (tức Chủ tịch Quốc hội) thay cụ Nguyễn Văn Tố. Ngoài những trọng trách được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó trong bộ máy chính quyền, Cụ còn là thành viên sáng lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt, một tổ chức như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Do những người lão thành có danh vọng, đạo đức như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Bùi Bằng Đoàn, cụ Nguyễn Văn Tố… và những người yêu nước khác không đảng phái đứng ra tổ chức.

Tháng 8.1948, tại Chiến khu Việt Bắc, Cụ bệnh nặng. Hồ Chủ tịch ra lệnh đưa Cụ về Liên khu 3 để chữa bệnh. Do phải nghỉ chữa bệnh, cụ Tôn Đức Thắng được giao chức Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Hòa bình lập lại, Hồ Chủ tịch và Chính phủ đưa Cụ về Hà Nội dưỡng bệnh. Ngày 13.4.1955, Cụ qua đời tại Hà Nội.

Từ một ông quan thanh liêm, chính trực, nhận rõ đường lối cách mạng vì dân,vì nước và mến mộ tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vượt qua những định kiến của thời cuộc, Cụ rời quê dấn thân vào con đường cách mạng, tham gia chính quyền mới. Đức thanh liêm và tấm lòng tận tụy với nước, tận hiếu với dân của Cụ Bùi Bằng Đoàn là tấm gương sáng để chúng ta noi theo, đặc biệt là trong thời đại ngày nay.