Phù hợp với các điều ước quốc tế
Bình luận về quy định liên quan đến các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và giới hạn quyền tác giả, PGS, TS. Lê Thị Nam Giang - Giám đốc Trung tâm Sở hữu trí tuệ Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, cho rằng, điểm a khoản 1 Điều 25 dự thảo Luật quy định về trường hợp “Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép công cộng” được coi là trường hợp ngoại lệ, không xâm phạm quyền tác giả. So với Luật hiện hành, qua quá trình tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật đã bổ sung trường hợp sao chép một bản tác phẩm dành cho mục đích học tập, bên cạnh cho mục đích nghiên cứu khoa học hiện nay.
Khẳng định việc bổ sung trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả là phù hợp với thực tế Việt Nam, PGS, TS. Lê Thị Nam Giang cũng lưu ý, nội dung bổ sung này đáp ứng các điều ước quốc tế mà nước ta tham gia. Bởi, thực tế, các điều ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam là thành viên về giới hạn quyền tác giả, có thể kết luận rằng quy định về giới hạn quyền tác giả được quy định một cách linh hoạt. Các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia đều cho phép các bên ký kết quy định trong pháp luật quốc gia về các trường hợp ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả cũng như cách thức quy định (quy định theo một danh sách được liệt kê cụ thể hay chỉ đưa ra các tiêu chí để xác định các trường hợp sử dụng ngoại lệ này mà không liệt kê cụ thể). Tuy nhiên, pháp luật của các quốc gia thành viên phải đáp ứng tuân thủ việc cho phép sử dụng ngoại lệ quyền tác giả bảo đảm không được ảnh hưởng/mâu thuẫn đến sự khai thác bình thường của tác phẩm và không được gây phương hại bất hợp lý đến các lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền.
Dù việc bổ sung trường hợp ngoại lệ này trong dự thảo Luật phù hợp với các cam kết quốc tế Việt Nam tham gia, song nguyên Trưởng phòng Pháp chế - chính sách, Cục Sở hữu trí tuệ Nguyễn Thanh Hà cho rằng, khi xây dựng các quy định về các trường hợp ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam, vấn đề quan trọng ở đây không phải là xem xét các quy định này đã tuân thủ quy định của điều ước quốc tế hay chưa, mà quan trọng là các nhà lập pháp của Việt Nam đã khai thác được tối đa các quy định linh hoạt mà điều ước quốc tế dành cho các thành viên hay chưa? Điều này không có nghĩa chúng ta không cần xem xét đến các điều kiện để quy định về các ngoại lệ nêu trên được coi là phù hợp với điều ước quốc tế (quy định về phép thử ba bước như phân tích ở trên), bởi lẽ đây là nghĩa vụ phải tuân thủ.

Khó có thể áp dụng hiệu quả trên thực tế
Đây là lo ngại được PGS. TS. Lê Thị Nam Giang chỉ ra khi bình luận về quy định trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả tại dự thảo Luật. Bởi, quy định bổ sung tại dự thảo Luật không giới hạn tỷ lệ sao chép phục vụ cho mục đích học tập, trong khi nếu cho phép sao chép toàn bộ một bản tác phẩm phục vụ cho mục đích học tập sẽ làm ảnh hưởng đến sự khai thác bình thường của tác phẩm, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả. Trong khi đó, trong môi trường số hiện nay, việc sao chép tác phẩm được thực hiện khá dễ dàng với chất lượng không thua kém bản gốc. Mặt khác, có thể thấy, ở nước ta hiện nay, hoạt động photocopy chưa thực sự được quản lý chặt chẽ, nếu không nói là tình trạng vi phạm bản quyền trong hoạt động sao chép diễn ra phổ biến. Do vậy, bà Lê Thị Nam Giang cho rằng quy định “tự sao chép” và “quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép công cộng” khó có thể áp dụng hiệu quả trên thực tế. Lý lẽ là bởi khó có thể xác định học sinh, sinh viên sử dụng bản sao chép do dịch vụ của thư viện cung cấp hay tự họ thực hiện?
Thực tế cho thấy, rất khó để xây dựng được các quy định chi tiết đến mức định lượng cụ thể cho tất cả các trường hợp ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả nhằm đạt được sự cân bằng tuyệt đối giữa lợi ích của chủ sở hữu quyền tác giả và lợi ích của xã hội. Khẳng định điều này, bà Lê Thị Nam Giang đề nghị cùng với việc hoàn thiện các quy định này trong dự thảo Luật, cần có sự phối hợp các biện pháp khác, như quản lý chặt chẽ các cơ sở photocopy, nâng cao nhận thức và ý thức của công chúng về quyền tác giả nhằm tạo điều kiện cho việc thực thi quy định về các ngoại lệ quyền tác giả này...
Có thể thấy, việc cho phép sao chép tác phẩm để phục vụ mục đích học tập không vi phạm các điều ước quốc tế, đồng thời đáp ứng đòi hỏi thực tế hiện nay, vì không phải ai, đối tượng nào hoặc trong mọi thời điểm đều có điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học. Đơn cử, nhu cầu sao chép tác phẩm để hoàn thành các khóa luận của sinh viên hiện rất lớn, nhất là khi chúng ta đang cải tiến cách dạy ở bậc đại học. Từ kinh nghiệm cá nhân, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng nhấn mạnh, việc giới hạn quyền sao chép tác phẩm vì mục đích học tập ở mức độ bao nhiêu hiện chưa có một quy định chung trên thế giới. Song, qua việc đi học ở một số nước đã nhận thấy, sinh viên không được sao chép toàn bộ tác phẩm, nhưng không bị giới hạn tỷ lệ sao chép, có thể được sao chép ở mức hợp lý để phục vụ cho các bài khóa luận của mình.
Quy định các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả, nói rộng hơn là bản chất của nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền tác giả và lợi ích xã hội là sự dung hòa quyền lợi giữa các bên. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, nếu cân bằng được lợi ích giữa các bên sẽ không chỉ góp phần thúc đẩy sự sáng tạo mà còn hạn chế tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng. Do vậy, trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ tới đây, cơ quan chủ trì thẩm tra sẽ cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để tìm được điểm cân bằng lợi ích, cụ thể là với quy định về các trường hợp ngoại lệ trong sao chép tác phẩm.