Chính trị

ĐBQH Võ Mạnh Sơn (Thanh Hóa): Bổ sung chính sách hỗ trợ việc làm cho người lao động

Đào Cảnh 07/05/2025 14:49

Góp ý Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) sáng 7/5, ĐBQH Võ Mạnh Sơn (Thanh Hóa) đề nghị ban soạn thảo xem xét bổ sung thêm chính sách hỗ trợ việc làm cho người lao động trong bối cảnh già hóa dân số, sắp xếp tinh gọn lại bộ máy để phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội hiện nay.

hoai-son.jpg
ĐBQH Võ Mạnh Sơn (Thanh Hóa). Ảnh: Lâm Hiển

Theo ĐBQH Võ Mạnh Sơn, nội dung dự thảo Luật việc làm (sửa đổi) lần này đã đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động việc làm trong bối cảnh cả nước đang cơ cấu lại thị trường lao động và giải quyết các vấn đề xã hội liên quan. Tuy nhiên, đại biểu bày tỏ băn khoăn với nội dung giải trình tại Báo cáo số 1264/BC-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng: Khoản 4 Điều 21 của Bộ luật Dân sự quy định: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”. Còn quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 9 được kế thừa từ Luật Việc làm hiện hành đã được triển khai thực hiện trong thời gian vừa qua và không phát sinh vướng mắc.

Thực tế, đối với người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi rất khó để có thể tự mình đưa ra được “phương án sử dụng vốn vay để tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm”. Để tránh tình trạng hợp thức hóa phương án sử dụng vốn vay, đại biểu Sơn đề nghị cần rà soát quy định “người lao động” tại điểm b khoản 1 Điều 9 với quy định tại Điều 3, điểm a khoản 4 Điều 9; đồng thời, cân nhắc việc người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có đủ độ tuổi, đủ trách nhiệm dân sự có thể tiếp cận, thực hiện quản lý, sử dụng nguồn vốn vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm.

Bên cạnh đó, hiện nay đã có văn bản dưới Luật quy định việc xử lý đối với trường hợp người lao động đi làm việc ở nước ngoài bị rơi vào tình huống bất khả kháng dẫn đến không có khả năng hoàn trả khoản vay. Tuy nhiên, căn cứ pháp lý của các văn bản dưới luật này có nội dung quy định đối tượng chưa phù hợp với Dự thảo Luật việc làm. Để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, đại biểu đề nghị cần xem xét bổ sung nội dung chính sách hỗ trợ đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài bị rơi vào tình huống bất khả kháng, dẫn đến không có khả năng hoàn trả khoản vay.

Cũng theo đại biểu Võ Mạnh Sơn, Điều 13 Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) quy định Chính sách hỗ trợ việc làm cho người lao động là thanh niên, cần bổ sung thêm đối tượng là dân quân tự vệ tại địa phương, thanh niên hoàn thành chấp hành án phạt tù. Ngoài ra, cần xem xét bổ sung thêm chính sách hỗ trợ việc làm cho người lao động trong bối cảnh già hóa dân số, sắp xếp tinh gọn lại bộ máy để phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội hiện nay.

Liên quan đến điều kiện hưởng thất nghiệp tại khoản 2 Điều 40 quy định: “Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc chấm dứt làm việc theo quy định của pháp luật. Trường hợp người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 12 tháng thì phải đóng đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động”.

Theo đại biểu Sơn, thực tế một số doanh nghiệp đã khấu trừ lương của người lao động hàng tháng để đóng BHTN cho người lao động, nhưng doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ đóng BHTN cho người lao động dẫn đến tình trạng khi người lao động nghỉ việc không thể chốt sổ BHXH, BHTN nên không được hưởng BHTN. Trong khi đó, trách nhiệm thu BHTN là trách nhiệm của cơ quan BHXH, xử lý hành vi trốn đóng, nợ đọng… là của cơ quan quản lý nhà nước. Nhưng khi cơ quan BHXH, cơ quan quản lý nhà nước không xử lý được hành vi vi phạm của doanh nghiệp lại không cho người lao động được hưởng BHTN là chưa bảo đảm sự công bằng đối với người lao động.

Để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động, đại biểu đề nghị cần xem xét bổ sung khoản 2 Điều 40 như sau: “Người sử dụng lao động đã thu tiền bảo hiểm thất nghiệp của người lao động từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc chấm dứt làm việc theo quy định của pháp luật. Trường hợp người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 12 tháng thì người sử dụng lao động đã thu tiền bảo hiểm thất nghiệp của người lao động đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động”.

Hành vi vi phạm của người sử dụng lao động, các cơ quan chức năng có trách nhiệm áp dụng các biện pháp xử lý (xử phạt hành chính, lãi chậm đóng, thu hồi khoản nợ…) để đòi lại khoản nợ BHTN từ người sử dụng lao động.

    Nổi bật
        Mới nhất
        ĐBQH Võ Mạnh Sơn (Thanh Hóa): Bổ sung chính sách hỗ trợ việc làm cho người lao động
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO