ĐBQH và những phát biểu ấn tượng tại nghị trường năm Canh Dần
Không bao giờ có thể quy định: mỗi ĐBQH phải phát biểu ít nhất bao nhiêu lần, nhiều nhất bao nhiêu lần ở mỗi kỳ họp QH. Tần suất xuất hiện của mỗi ĐBQH là khác nhau, và chất lượng cũng như ấn tượng của mỗi lần xuất hiện của các ĐBQH cũng không giống nhau. Trước khi khép lại năm Canh Dần, ĐBND chọn và giới thiệu một số phát biểu ấn tượng của các ĐBQH ở hai Kỳ họp QH trong năm qua.
Quốc hội hoàn toàn có quyền thiết lập danh hiệu Công dân danh dự thủ đô
Về danh hiệu Công dân danh dự thủ đô trong dự thảo Luật Thủ đô: Công dân là phạm trù mang tính quốc gia gắn với một nhà nước cụ thể theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Việc xác định công dân Việt Nam căn cứ vào quốc tịch. Việc xác định quốc tịch căn cứ vào quy định của Luật Quốc tịch. Việc cho nhập, tước quốc tịch Việt Nam thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Nước. Theo quy định của dự thảo Luật Thủ đô: việc thiết lập danh hiệu Công dân danh dự thủ đô để vinh danh những cá nhân có công lao đặc biệt trong việc phát triển thủ đô, mở rộng hợp tác quốc tế của thủ đô. Như vậy xét về bản chất công dân là một chế định pháp luật, còn công dân danh dự thủ đô là một danh hiệu của một địa phương. Sự khác biệt cơ bản này có ảnh hưởng quyết định đến tính chất, nội dung, hình thức, thủ tục và các vấn đề khác liên quan đến chế định công dân và danh hiệu công dân danh dự. Ở đây cần nhấn mạnh Công dân danh dự thủ đô là một danh hiệu mới mà trước đó chưa được đề cập đến trong bất cứ văn bản luật nào hiện hành của nước ta.
Theo quy định Khoản 11, Điều 84, Hiến pháp 1992 thì danh hiệu vinh dự Nhà nước và danh hiệu vinh dự Nhà nước này được cụ thể hóa trong Luật Thi đua khen thưởng. Còn danh hiệu vinh dự của một địa phương do cơ quan nào quy định là vấn đề đang bỏ ngỏ. Tuy nhiên căn cứ vào Điều 83, Khoản 6, Điều 84 Hiến pháp 1992 Quốc hội hoàn toàn có quyền thiết lập danh hiệu Công dân danh dự thủ đô trong dự thảo Luật Thủ đô. Vì vậy việc quy định danh hiệu công dân danh dự thủ đô không liên quan đến chế định công dân, do đó không mâu thuẫn với quy định của Hiến pháp và luật hiện hành về chế định công dân.
Mặt khác thực tế cho thấy, mặc dù chưa được luật hóa nhưng năm 1982, cố Đại tướng Mai Chí Thọ khi đó là Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh và năm 2008 Phó chủ tịch UBND thành phố Huế Nguyễn Đăng Thạch đã trao danh hiệu công dân danh dự thành phố Hồ Chí Minh, công dân danh dự thành phố Huế cho Arashi Masahiro - người có công lao đóng góp to lớn cho hai thành phố này. Việc đưa vào dự thảo luật danh hiệu Công dân danh dự thủ đô còn nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xã hội. Tuy nhiên đề nghị danh hiệu này chỉ nên dành cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và danh hiệu này chỉ làm phát sinh quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân, chứ không phải là quyền và nghĩa vụ như trong dự thảo Luật Thủ đô.
ĐBQH Vũ Hồng Anh (TP Hà Nội)
Không dựa mãi vào bầu sữa của Nhà nước
Tôi có cảm giác một số người trông vào nhà nước nhiều quá, mong nhà nước chi cái này chi cái kia. Theo tôi, Nhà nước chi tới 20% cho giáo dục là quá hết ga, anh đòi nữa cũng không đòi được. Vậy thì con đường nào để cải thiện cơ sở vật chất cho đại học ở Việt Nam. Theo tôi chỉ có một con đường. Đó là đẩy mạnh hơn nữa xã hội hóa và thu hút đầu tư nước ngoài vào giáo dục đại học. Nếu chúng ta dựa vào bầu sữa của nhà nước thì có khi nặn mãi cũng không ra sữa nữa.
Theo tôi phải có cơ chế, chính sách, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp để có một chính sách thu hút những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đại học. Họ có đủ cơ sở, họ có đủ vốn liếng để làm cho cơ sở vật chất của đại học cải thiện, phát triển mạnh mẽ.
Thu hút đầu tư nước ngoài vào giáo dục đại học, vấn đề này rõ rồi: hiện nay chúng ta cấp phép 4 trường, trong đó có trường RMIT. Có ý kiến cho rằng đã xã hội hóa là chấp nhận họ có lợi nhuận, lợi nhuận đó được người đi học chấp nhận. Ví dụ: giá ở RMIT bằng một nửa, nếu con em chúng ta học ở Úc. Tôi thấy, con đường này là một trong những biện pháp để đi đến cải thiện cơ sở vật chất của giáo dục đại học.
ĐBQH Nguyễn Đăng Trừng (TP Hồ Chí Minh)
Nên coi doanh nghiệp kiểm toán là doanh nghiệp bình thường, hoạt động có điều kiện
Chúng ta cần thiết phải coi các doanh nghiệp kiểm toán cũng là một doanh nghiệp bình thường, hoạt động có điều kiện. Cho nên, nếu để Bộ Công thương cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp kiểm toán thì không phù hợp và bộ máy của Bộ sẽ cồng kềnh thêm ra. Việc cấp và đình chỉ thu hồi giấy phép thành lập doanh nghiệp kiểm toán nên để cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính kiểm soát các hoạt động, kiểm soát hành nghề - thì sẽ phù hợp hơn với Luật doanh nghiệp, tránh cồng kềnh, tránh trùng lắp về chức năng.
Dự thảo Luật Kiểm toán độc lập, tại Điểm c, Khoản 4, Điều 20 có quy định không cho các doanh nghiệp kinh tế tư nhân góp vốn để thành lập các doanh nghiệp kiểm toán - tôi cho rằng không phù hợp. Vì khi đã coi doanh nghiệp kiểm toán là một doanh nghiệp thì phải cho phép tham gia góp vốn và hoạt động bình thường.
Điều 46, Khoản 2 phạm vi hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán. Theo tôi nên cho phép các doanh nghiệp này có các dịch vụ khác như tư vấn kinh tế, tư vấn tài chính, thuế, dịch vụ, kế toán là hợp lý, bởi vì họ là một doanh nghiệp thì họ vừa là dịch vụ kiểm toán nhưng cũng có thể là các dịch vụ khác. Khi họ đã là doanh nghiệp thì nên để cho họ hoạt động như Luật doanh nghiệp. Còn vấn đề kiểm toán thì ta quy định chi tiết, những điều kiện như thế nào để họ được hoạt động kiểm toán. Nếu họ không đủ điều kiện hoạt động kiểm toán thì họ bị đình chỉ phần kiểm toán, còn các dịch vụ khác họ vẫn được quyền hoạt động.
Tôi đề xuất thêm một mục trong dự thảo Luật Kiểm toán độc lập là: đấu thầu kiểm toán và sử dụng kiểm toán độc lập cho những dự án sử dụng ngân sách Nhà nước và những công ty, tập đoàn kinh tế Nhà nước. Chúng ta coi kiểm toán độc lập là một doanh nghiệp và hoạt động theo pháp luật; vậy thì không nên phân biệt kiểm toán Nhà nước hay kiểm toán độc lập tư nhân, đã hoạt động theo pháp luật thì phải tuân thủ theo pháp luật. Tôi đề nghị đưa vào luật về việc sử dụng các công ty kiểm toán độc lập cho các công ty, các loại hình dự án, doanh nghiệp Nhà nước và các ngân sách Nhà nước thông qua hình thức đấu thầu kiểm toán.
ĐBQH Phạm Thị Loan (Hà Nội)
Tự do hóa lãi suất: được và chưa được ở chỗ nào?
Có thể nói dăm năm nay, câu chuyện tự do hóa lãi suất và bỏ trần lãi suất đã làm tốn rất nhiều giấy mực của các nhà khoa học về luật, của các nhà hoạt động ngân hàng và ý kiến khác nhau cũng rất nhiều. Vấn đề trần lãi suất liên quan đến Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Bộ luật Hình sự.
Dự án Luật Ngân hàng ở Điều 91, Khoản 2 quy định: tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 điều này. Khoản 3 quy định: trong trường hợp cần thiết để đảm bảo an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định về cơ chế xác định lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Với quy định này chúng ta có thể hiểu được rằng luật cho phép khách hàng và tổ chức tín dụng có quyền thỏa thuận về lãi suất. Lãi suất ở đây có thể hiểu là cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay về cơ bản là được thỏa thuận còn trong trường hợp cần thiết để đảm bảo an toàn hệ thống thì Khoản 3 quy định Ngân hàng Nhà nước sẽ có quyền quy định cơ chế xác định lãi suất chứ không quy định về lãi suất. Như vậy có thể hiểu là bằng hai khoản này đã quy định về tự do hoá lãi suất và bỏ trần lãi suất. Nhưng Điều 476 của Bộ luật Dân sự có quy định về lãi suất trong hợp đồng vay, quy định lãi suất cho vay là do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. Bằng quy định này thì Điều 476 của Bộ luật Dân sự có thực hiện nữa không? Nếu chúng ta quy định về bỏ trần lãi suất và tự do hóa lãi suất, cần giải trình thêm. Nếu định tự do hóa lãi suất thì mặt được và mặt chưa được ở chỗ nào, để qua thực tiễn thực hiện chúng ta có thể tạo sự đồng thuận trong dư luận.
ĐBQH Lê Thị Nga (Thái Nguyên)
Nếu không khéo dễ “hà tiện” hoặc dễ trở thành khẩu hiệu
Khi QH bàn về vấn đề tiết kiệm năng lượng, cử tri cả nước đang bồi hồi trước tình trạng cắt điện hiện nay trên cả nước. Các nhà sản xuất, người tiêu dùng đang lo âu không biết mất điện lúc nào, sản xuất ra sao.
Tiết kiệm năng lượng hiệu quả đó là những vấn đề vô cùng khó. Tiết kiệm điện ở mức độ nào để hiệu quả, thì Luật cần làm rõ vấn đề này, không khéo thì trở thành hà tiện mà hiệu quả không đảm bảo. Nếu không khéo thì tiết kiệm năng lượng trở thành khẩu hiệu cho toàn xã hội - thì không hay lắm. Bởi vì điện đóng một vai trò quyết định cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước mà nếu chúng ta quá hà tiện thì kinh tế không phát triển. Vấn đề khó là bảo đảm tiết kiệm được năng lượng mà hiệu quả kinh tế vẫn đi lên.
ĐBQH Trần Văn Kiệt (Vĩnh Long)