Đâu chỉ là trò chơi (Phần 1)
Truyện ngắn của Hoàng Công Danh

06/02/2013 08:33

>> Đâu chỉ là trò chơi (Phần cuối)

Sanh quyết định quay lại chùa một chuyến. Không có ý tu nhưng chắc là sẽ xin ở chơi chừng dăm ba bữa. Lâu lắm rồi, cũng dễ đến chục năm không về lại ngôi chùa nơi anh từng cải nghiệp. Chừng ấy thời gian, có đôi khi anh muốn về thăm sư thầy, thăm lại chốn xưa chùa cũ với cây si già trăm tuổi. Nhưng Sanh cứ nấn ná, ái ngại, anh tự thấy mình phạm phải những lỗi lầm đến nỗi không dám nhón chân tới cửa thiền.

1.

Gương mặt già hơn tuổi và cách nói chuyện dè chừng, dễ dàng đoán ra Sanh có một nửa cuộc sống ở bên trong. Giống như câu kinh là thứ thần chú, chỉ phơi phần xác chữ cho tín đồ đọc, còn lại cất giấu đi sự linh nghiệm nhiệm mầu. Con người là một câu kinh, có phần nổi phần chìm. Ai sống phần nổi thì dễ như đọc thuộc làu làu kinh, ai sống phần chìm thì mới đích thị là người ngộ kinh. Sanh đã quên hết kinh kệ, chỉ nhớ được mấy câu niệm nam mô, nhưng ít khi anh dùng tới. Đời cứ bảo Phật tại tâm, không cần tới chùa chiền. Sanh không phải hùa theo đời để đinh ninh có tam bảo trong mình. Anh nghĩ Phật ở chùa, nếu có Phật ở tâm chắc người ta không quái quỷ hư đốn đến thế. Cái điều Sanh ngẫm được ấy, nó chẳng phải đâu xa, chính từ anh mà ra. Nếu có Phật tại tâm thì anh đã không để đời mình trôi nổi theo những bon chen giành giật, những gian xảo lật lường. Và đó là lý do dù đã thành đạt trong cương vị giám đốc, Sanh luôn thấy chênh chao như đứng bên một mỏm đá cheo leo trên đỉnh núi, nhất cử nhất động họa sẽ xảy ra khôn lường.

 Minh họa của Vũ Xuân Hoàn
Minh họa của Vũ Xuân Hoàn   

Năm ngày nữa Sanh sẽ dự một phiên đấu thầu lớn, gói thầu xây dựng đập ngăn nước đầu nguồn chống lũ. Công trình dự kiến thực hiện trong vòng ba năm. Đấy là một gói thầu béo bở mà rất nhiều nhà thầu mon men muốn xơi. Nhưng ở đời cái gì dễ ăn đều dễ dính độc. Một tháng nay Sanh tất tả “chạy hành lang”, liên lạc với chủ đầu tư và các bạn thầu cạnh tranh. Anh bỏ ra một khoản kha khá tiền lót tay để gói thầu được về mình. Nếu chuyến này Sanh giật được thầu, thì anh sẽ cứu công ty thoát khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nửa năm nay anh đã phải cho ba kỹ sư nghỉ việc vì không có lương trả cho họ. Hai chục tay thợ hồ trung thành với Sanh mấy năm rồi, thế mà anh cũng phải dứt lòng bảo họ đi làm chỗ khác vì công ty không có việc. Gói thầu lần này lợi nhuận cao, nhưng nó sẽ là con dao hai lưỡi bởi việc xây dựng đập ngăn nước không dễ ăn. Chỉ cần sơ suất là ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân nơi vùng cửa gió. Báo chí đang làm ầm lên chuyện mùa lũ vừa rồi, một đập nước mới hoàn thành chưa đưa vào nghiệm thu đã bị vỡ. Người ta nhận thấy trong mớ bê tông có độn rác và gỗ mục. Năm ngày nữa đóng thầu, khoảng thời gian không phải quá lâu, nhưng Sanh chẳng nôn nóng đôn đáo, những gì cần làm anh đã giải quyết xong cả. Lúc này anh cần yên tĩnh, cần để đầu óc mình thoát khỏi những toan tính bạc tiền. Và anh quyết định trở về chốn xưa chùa cũ, nơi ấy anh đã sống cải nghiệp một thời gian trong ấu thơ, nơi ấy không dính dáng đến bạc tiền, chỉ có tiếng chuông và những hồi kinh.

Trời sang mùa đông, chớm lạnh. Anh khoác thêm áo vét choàng ngoài. Nhưng khi gần đến cửa chùa thì anh cởi áo vét ra, ném vào ô tô, chỉ đánh độc bộ áo quần sơ mi vải rồi rảo bộ lên chùa. Hai chục năm về trước, anh là điệu Sanh với áo nâu, đầu cạo trọc, dép nhựa đơn sơ. Hình ảnh ấy quay về nhắc nhủ anh phải giản dị khi tới đây, nếu không muốn mình bị chênh ra trên khoảng sân ấu thời.

Sanh bước qua cổng. Hai chú tiểu đầu trọc đang chơi bi vòng ở sân. Một chú nheo mắt nhắm bắn, hòn bi vừa rời tay lăn nhanh đến chạm cái trốc vào hòn kia. Sanh kêu lên “trúng rồi”, cứ như thể anh là điệu Sanh ngày nào đang đánh bi với điệu Năng. Hai chú tiểu đưa mắt lên nhìn Sanh rồi lại tiếp tục trò chơi. Ở chùa, người ta đến viếng hương hoặc vãn cảnh là chuyện bình thường. Đến đây chả có ai là khách để mà phải đón tiếp, rước mời.

Anh bước đến gần cái vòng vạch trên đất, hỏi:

- Có thầy ở trong không chú?

Một chú đáp:

- Dạ có, thầy con đang ở trong phòng. Chú cần gặp thầy con à?

Sanh gật đầu.

- Nhờ chú thưa với thầy là có người đệ tử lâu ngày muốn gặp.

Trong lúc chú tiểu chạy vào chùa thì Sanh đi dạo ngoài sân. Anh đến chỗ cây si, ngước đầu lên nhìn những tán lá, trông chúng bất động như đang thiền. Cái ghế đá kê ở dưới gốc cây nay đã cất đi. Sanh nhớ hồi còn là chú tiểu, có lần Sanh thấy một cặp trai gái ngồi ôm nhau ở đây. Rồi thầy bắt anh khoác giỏ mây nhặt lá. Lại có lần anh trèo lên cây si trốn thầy vì sợ bị bắt vào ngủ trưa.

Lát sau chú tiểu chạy ra.

- Thầy con bảo mời chú vào trong tịnh thất.

Sanh bước vào. Căn phòng ngày xưa anh ở chung với sư thầy, nay đã được bố trí lại. Cất bớt một cái giường, đặt vào thêm một bộ bàn gỗ uống nước. Và vị sư Sanh gặp, không phải là sư thầy của anh mà là một vị sư trẻ, khoảng chừng bốn chục tuổi đời.

Sanh chắp tay vái chào, cung cách ấy anh chưa quên. Vị sư xòe bàn tay ra mời khách ngồi ở ghế. Thầy pha trà, nói:

- Nghe chú tiểu biểu có khách quen. Tôi cũng vui. Nhưng chắc anh định tìm sư Huệ Siêu?

Sanh thầm đoán có chuyện gì đó, có lẽ sư thầy của anh không còn ở đây. Nhưng Sanh không nói gì, anh nhấp chén trà và chỉ gật khẽ đầu.

- Thầy Huệ Siêu viên tịch đã gần một năm nay. Tôi được giáo hội ủy về đây trụ trì. Người mới việc mới, thú thật chưa quen hết. Nhất là những người vốn có thiện duyên với chùa. Tôi rất muốn gặp họ để tìm hiểu thêm.

Sanh lặng đi trong chốc lát. Sư thầy của anh đã không còn nữa. Anh tự trách mình lâu nay không lui tới chùa thăm thầy. Để đến khi quay lại thì thầy đã viên tịch. Hồi đó thầy dạy anh ở đời được mất như người Tái thượng, còn hết âu cũng là lẽ vô thường. Đừng nên buồn nhiều khi những gì ta vốn gắn bó lâu nay bỗng hóa ra không. Lời thầy dạy anh khắc ghi, nhưng cái tin thầy mãi mãi ra đi đến bất ngờ quá, như một cơn gió bất ngờ ập tới khiến anh xốn xang trong mắt. Sanh ngửa đầu lên, thít mũi một cái ngậm ngùi. Anh xin phép vị sư rồi đứng dậy đi vào trong nhà hậu chẩm thắp nhang cho thầy.

Di ảnh thầy đặt ở bàn thờ giữa. Anh kéo rèm nhiễu đỏ lên quá đôi mắt trong ảnh. Chân dung vị sư khả kính với vẻ uy nghi thanh thoát. Anh nói thầm với chính mình: “Thầy ơi con đã về đây. Con về để sám hối với thầy những tội lỗi bấy lâu”. Mắt thầy rói lên một nụ cười. Bức ảnh vẫn chỉ là bức ảnh, yên ắng không hề lay động. Nụ cười hiền của thầy vẫn nằm trên khung kính. Anh vái thầy thêm một lạy nữa rồi quay ra thư phòng. Lúc ấy anh nghĩ, sẽ chẳng cần phải giới thiệu về mình nữa. Thầy đã về cõi A Di Đà cực lạc, chẳng còn ai ở ngôi chùa này biết đến anh. Và anh không muốn nhắc lại quãng thời gian anh cải nghiệp.

- Chắc đã lâu anh không tới chùa? – Vị sư hỏi.

Sanh đáp:

- Dạ đúng. Công việc bận quá thầy ạ. Trước thỉnh thoảng con vẫn hay lui tới.

- Tôi về đây lúc thầy Huệ Siêu ốm bệnh. Hai tháng cuối, thầy chỉ ăn được cháo, nhưng trí tuệ minh mẫn. Đợt rét, thầy đi. Nhẹ nhàng thanh thản anh ạ.

Sanh vẫn áy náy, giá anh tranh thủ được công việc, lên đây ở với thầy những ngày sau rốt đời người thì tốt biết mấy. Vị sư nói thêm:

- Mấy ngày cuối cùng, thầy tỉnh lắm. Ngủ thì thôi chứ hễ thức là mắt sáng lên như người mạnh khỏe. Hình như là trông chờ một ai đó. Thỉnh thoảng thầy gọi Sanh, Sanh.

Sanh mím chặt môi để không bật ra nguồn cảm xúc đang sục sôi trong mình. Anh sợ lộ ra cái tung tích điệu Sanh. Nghề làm kinh doanh đã cho anh kiểu đối xử lạnh lùng với cảm xúc. Nếu để cho đối phương nắm rõ cái tâm thế luống cuống của mình, thì họ sẽ hạ gục anh ngay trên cuộc đàm phán thương thỏa. Sanh chưa kịp nói gì thì vị sư tiếp lời:

- Anh có biết người tên Sanh không? – Vị sư hỏi.

- Dạ... không – Sanh đáp gỏn lọn, khi đã tiết chế được cảm xúc.

- Nghe nói đấy là một chú tiểu mà thầy rất chiều. Nhưng đã hoàn tục lâu rồi.

- Ai nói vậy thầy? – Sanh hỏi lại.

- Cô Tằm cô ấy nói, có vậy thôi.

- Có phải cô Tằm bán vải?

- Đúng cô ấy. Anh có biết sao?

Sanh đáp vụng về, kiểu muốn giấu giếm.

- Dạ. Hồi trước cũng có biết sơ sơ. Bây giờ cô ấy còn bán vải ở chợ không thầy?

- Còn bán vải. Nhưng ở ngoài chợ tỉnh. Hồi thầy ốm, cô ấy hay tới chăm nom. Nhưng một năm nay thấy vắng. Chắc cũng do bận bịu công việc.

Sanh nói chuyện với vị sư một lúc, anh cố ý lảng tránh việc nhắc lại điệu Sanh. Vị sư cũng không đề cập thêm nữa. Có lẽ thầy không quan tâm lắm chuyện đó, một chú tiểu đã từng ở chùa trước khi thầy về trụ trì, chẳng phải lưu tâm nhiều.

Chợt nhớ tới Năng sư huynh, Sanh hỏi:

- Thế thầy có biết chú Năng bây giờ ở chùa nào không?

- À. Đấy là đại đức Thanh Nhơn. Lúc tôi về đây cũng không gặp thầy ấy. Nghe nói là rời chùa đã khá lâu, sư thầy Huệ Siêu cũng không biết được. Thầy ấy đi chẳng báo cho ai hay.

Vị sư giữ Sanh ở lại dùng cơm trưa với nhà chùa. Nhưng Sanh cám ơn rồi xin hẹn lần khác. Anh đã không thực hiện được dự tính ban đầu là ở lại chùa chơi dăm ba bữa cho đỡ căng thẳng rồi mới quay về để dự phiên đấu thầu. Lúc tiễn Sanh ra cổng, vị sư nói:

- Thỉnh thoảng anh lên đây chơi cho vui. Kể từ khi tôi về chùa trụ trì, ít gặp được người quen của sư Huệ Siêu. Con người mình lạ lắm, cứ hễ đến chùa mà không gặp được sư thầy từng quen thì không lui tới nữa. Cửa thiền, ai giữ cũng vậy thôi, đúng không anh?

Sanh đáp dạ, chắc là do người ta bận công chuyện không tới đó. Có dịp con sẽ ghé viếng Phật và thỉnh giáo thầy.

2.

Sanh đi ra khỏi cổng chùa, rảo bước như thể chạy trốn. Một cuộc chạy trốn với quá khứ. Anh không muốn bất kỳ người nào ở đây biết anh từng là điệu Sanh, từng được sư thầy cưng chiều, thế mà đến khi thầy ngã bệnh, những phút cuối cùng ú ớ gọi tên người đệ tử yêu trìu nhưng chẳng gặp được.

Sư thầy muốn gặp anh chỉ vì nhớ một người phương xa chăng? Như kiểu người ta sống hết một đời, đến lúc gần đất xa trời lại thèm ngóng đứa cháu từ ngàn dặm trở về, chỉ để nó khóc rống lên một hồi tiễn biệt. Không phải, sư thầy không đơn giản vậy đâu. Anh đã từng sống với thầy ba năm, và ký ức thuở đầu đời in sâu vào trong anh cho đến lúc này, rằng sư thầy là một người ít khi bộc lộ ra bên ngoài. Có nhiều chuyện thầy giấu giếm rất kỹ. Chẳng hạn quá khứ của thầy, vì bị cấm đoán tình duyên mà thầy bỏ đi tu, rồi chuyện ông cụ thân sinh muốn sư thầy trở về lấy vợ để sinh cháu đích tôn. Vân vân, những chuyện hệ trọng đại loại như thế. Chẳng ai ngoài điệu Sanh được biết. Lẽ nào sư thầy còn có một điều gì muốn nói với Sanh? Một bí mật cuối cùng, hệ trọng hơn tất cả, phải đến lúc chẳng còn gì níu kéo người ta mới dám nói thật. Sanh đứng thần ra ở chỗ chiếc xe ô tô đỗ, cứ nghĩ chuyện sư thầy gọi tên mình lúc lâm chung, càng khiến anh vừa muốn khóc, vừa tò mò.

Anh đánh xe quay về hướng tây, phía chợ tỉnh. Có lẽ cô Tằm bán vải sẽ cho anh biết lời trăn trối của sư thầy. Nhưng nếu cô Tằm không nắm được lời trăn trối nào của sư thầy thì cũng chả sao. Đằng nào anh cũng rất muốn gặp lại cô bán vải, người đã chăm chút anh hồi ấy, từng sắm cho anh áo ấm mặc mùa đông, tắm rửa cho anh những ngày hè, rồi hái cỏ nhọ nồi chắt nước cho anh uống khi bị sốt phát ban. Cô đã từng như một người mẹ của điệu Sanh. Anh cũng rất biết ơn cô. Đến lúc lớn lên Sanh mới phát hiện ra một điều, cô không có con cái nên đã dành hết tình yêu con trẻ cho điệu Sanh. Thế mà dễ đến hai chục năm rồi anh không đoái hoài đến cô. Thỉnh thoảng mấy lần ghé chùa, anh chỉ thăm sư thầy, có hỏi đến cô, nhưng chẳng gặp được. Ở đời, mang ơn rồi phụ ơn, phủi áo ra đi là chuyện thường tình. Cái máy cát sét trong ô tô rè rè hát lên thứ nhạc vàng não nề ướt sườn sượt mà anh vẫn nghe, “xưa trắng tay gọi nhau bằng hữu, giờ giàu sang quên kẻ tâm giao”. Sanh với tay tắt ụp cái máy hát, giọng ca sĩ nghẹn đứ đừ.

Sanh vào chợ tỉnh, đi lên tầng hai, chỗ hàng áo quần vải vóc. Anh đi lướt qua các gian hàng trưng vải chẹt cả lối. Anh không nhìn vải, chỉ nhìn người. Qua hết lượt quầy đầu tiên thì anh gặp được cô. Sanh nhận ra ngay, cô có già đi nhưng nét mặt ở tuổi ba mươi hồi ấy và năm mươi bây chừ chẳng thể khác chi nhiều. Chỉ có Sanh là khác, khác một trời một vực. Từ cậu bé mười tuổi trọc lóc, đến chàng trai ba mươi tóc rẽ đường ngôi chỉn chu, kể đến cả bố mẹ cũng chả nhận ra được, nói chi người sơ quen.

- Mua vải gì chú ơi? – Cô hỏi lúc Sanh đã áp người vào liếp vải ngoài cùng, vừa đưa cái thước gỗ san qua những tấm vải – Vải áo hay vải quần đều có cả đấy.

Sanh nhìn cô, biết chắc cô Tằm đây rồi, cái giọng nói âm ấm khàn khàn ấy không lẫn vào đâu được. Song, anh chưa muốn để cho cô biết mình là ai.

- Vải lam cô.

- Loại may áo đoàn sinh hay may áo tràng?

- May áo cho điệu Sanh - Anh mỉm cười đáp.

Cô bất ngờ quay qua, nhìn chằm chặp vào Sanh. Rồi thốt lên:

- Phải...?

- Điệu Sanh. Con đây cô.

Cô Tằm quẳng cái thước xuống mớ vải. Đứng thần ra không biết nói gì. Quá bất ngờ và quá nhiều cảm xúc ập đến một lần. Tay cô run rẩy, luống cuống mà vụng về, không cử động gì được, mắt ngấn ra chực khóc, miệng ríu lại lát sau mới kêu lên được hai tiếng: “Trời đất”.

Sanh phụ cô Tằm đóng quầy. Hôm nay nghỉ sớm, bỏ luôn buổi chợ chiều. Hai chục năm gặp lại, sá chi một buổi chiều. Cô bán hàng bên cạnh nói với qua: “Con rể đấy hả bà Tằm?” Cô Tằm cười đáp: “Con ruột luôn chứ rể riếc gì”. Sanh mời cô Tằm đi ăn trưa để nói chuyện, lâu rồi cô cháu không gặp nhau. Cô Tằm hỏi, miệng cười đáo để:

- Ăn chay hay mặn?

Sanh đáp:

- Sơn hào hải vị đi cô.

Nhưng cô Tằm bảo:

- Nói vui vậy thôi, về nhà cô cũng được, về cho biết nhà luôn. Cháu sẽ thấy cuộc sống của cô khác nhiều đấy.

Quả đúng như cô nói. Nhà cô ở ngay mặt phố. Cô chuyển tới đây cũng được mười lăm năm rồi. Bên ngoài có cổng sắt đóng, phía trên lầu vắt xuống lớp cây dây leo như lưới. Cô Tằm nói trồng cho đỡ bụi đường. Bên trong nhà, đồ đạc cũng khá sang trọng, cái bếp ăn nằm kế sau phòng khách. Bước vào đã thấy ngay. Nó gợi cho người ta cảm giác ấm áp.

- Cô đã đi bước nữa, cách đây mười năm – Vừa bưng đĩa hoa quả từ sau bếp ra, cô Tằm vừa nói – À, mà chính xác phải nói là rổ rá cạp lại.

Sanh cũng không bất ngờ lắm khi biết tin cô lấy lại chồng, bởi ngay khi bước vào nhà, anh đã hồ nghi đây là một tổ ấm. Anh nói:

- Được như thế này thì không phải rổ rá cạp lại.

- Thế sao?

- Rồng phượng gặp nhau.

Cô Tằm cười giòn, rất khoái câu nói dí dỏm của Sanh.

- Hai chục năm gặp lại. Cháu chững chạc quá. Nhưng vẫn đáng yêu như xưa.

(Số sau đăng hết) 

    Nổi bật
        Mới nhất
        Đâu chỉ là trò chơi (Phần 1)<br><i>Truyện ngắn của Hoàng Công Danh</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO