Dấu ấn Nguyễn Quý Đức trong các di tích ở Hà Nội

ANH CHI 06/09/2009 00:00

Ngoài những công lao đã được ghi trong sử sách, Nguyễn Quý Đức còn có đóng góp đặc biệt đối với nhiều di tích lịch sử, văn hóa...

04-dau-an-24909-300-a2.jpg

Nguyễn Quý Đức quê ở xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Ông sinh năm Mậu Tý (1648), đời vua Lê Chân Tông. Năm 29 tuổi, ông đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Bính Thìn (1676), niên hiệu Vĩnh Trị thứ nhất đời Lê Hy Tông. Ông là một nhà chính trị cầm quyền Tham tụng (Tể tướng) nghiêm minh, giúp dân yên ổn làm ăn. Nguyễn Quý Đức cũng đã sáng tác nhiều thơ, là người cùng Lê Hy viết tiếp sách Đại Việt sử ký (tục biên). Về võ, ông từng làm Đốc đồng Cao Bằng, rồi làm Trấn thủ các xứ Hải Dương, An Quảng (Quảng Ninh ngày nay)...

Từ Văn Miếu - Quốc Tử Giám...

Năm Mậu Tý (1708), Nguyễn Quý Đức giữ chức Thượng thư bộ Binh kiêm Tri Quốc Tử Giám. Trong 10 năm (1708-1717) là người đứng đầu Quốc Tử Giám, ông lấy việc giáo dục anh tài cho đất nước làm mục đích đời mình. Được triều đình cấp 1.000 quan tiền để trùng tu Văn Miếu, ông vận động quyên góp thêm để xây dựng lại điện Khải Thánh, nhà tả vu, hữu vu và tạo dựng 21 tấm bia Tiến sỹ ghi tên các vị đỗ Tiến sỹ từ khoa Bính Thân (1656) đến khoa ấËt Mùi (1715). Có thể nói, di tích lịch sử văn hóa lớn của quốc gia, Văn Miếu, có dấu ấn của nhà giáo dục lớn Nguyễn Quý Đức! Năm Đinh Dậu (1717), việc trùng tu Văn Miếu khánh thành và khai giảng trường Quốc Tử Giám, Nguyễn Quý Đức đã 70 tuổi, được mời giảng trước.

Cũng năm 1717, Nguyễn Quý Đức 3 lần làm đơn xin về chí sỹ mới được vua Lê ưng thuận. Trở về sống ở quê, Nguyễn Quý Đức đã cho xây dựng Lạc Thọ Đình trên một gò đất đẹp bên bờ bắc con ngòi Tùng Khê ở Đại Mỗ. Đó là ngôi nhà vuông làm toàn bằng gỗ lim, lợp ngói mũi hài. Tại đây, thường ngày Nguyễn Quý Đức cùng một số bạn tâm giao đều là những danh thần, danh sỹ lớn đương thời đã nghỉ hưu, như Nguyễn Đương Bao, Đặng Đình Tướng làm thơ xướng họa.

Di tích lịch sử - văn hóa thứ hai ở Đại Mỗ là nhà thờ họ Nguyễn Quý, tọa lạc giữa làng, tại xóm Đình. Nhà thờ xây 2 nếp theo kiểu cung điện. Ngoài sân có nhà tảo mạc ở hai bên và 3 tấm bia đá niên hiệu thời Lê. Ba tấm bia đó ghi công tích 3 vị gồm Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý ân (con trai Nguyễn Quý Đức) và Nguyễn Quý Kính (cháu nội Nguyễn Quý Đức). Cả 3 người khi sống đều học giỏi, đỗ cao, làm quan đến cực phẩm (Tham tụng và Bồi tụng tức Tể tướng và Phó tể tướng), có đức cao và có tài trị nước, khi mất được sắc phong tước Đại Vương (Phúc thần). Dân chúng ở địa phương vẫn gọi là Nhà thờ Tam Đại vương. Trong hậu cung có ngai thờ 3 vị Đại vương, mỗi ngai có một ống bằng gỗ treo ở bên. Trong ống đựng tranh thờ vị Đại vương, cuộn tròn, chỉ vào ngày kỵ mới mở ra, để hành lễ. Đáng chú ý nhất là tranh vẽ Nguyễn Quý Đức, với dáng ngồi và y phục như một người dân thôn bình dị, không đội mũ cánh chuồn; thấy rõ áo chầu của ông vắt ở bên cạnh, tỏ ý quan trường và vinh hoa đã gác sang một bên...

... đến Trùng Quang Tự

Kề bên Lạc Thọ Đình, có ngôi chùa cổ, Trùng Quang Tự. Tương truyền, Thái úy Lý Thường Kiệt đã công đức tiền để xây dựng chùa từ thời nhà Lý. Năm Mậu Tuất (1478) niên hiệu Hồng Đức thứ 9 đời Lê Thánh Tông, Thái hậu Ngô Thị Ngọc Giao, mẹ vua Thánh Tông, đã công đức tiền để trùng tu lớn và cho đổi gọi tên là chùa Trùng Quang. Nhiều năm sau, quan Tổng tri là Lê Đại Sỹ lại đứng ra tu sửa chùa một lần nữa. Nhưng chiến tranh Lê-Mạc mấy chục năm trời, chùa Trùng Quang bị mất cả khánh đá, chuông đồng, gió mưa binh hỏa làm cho chùa hư hoại, đổ nát.

Khi về chí sỹ, Nguyễn Quý Đức đã đem lộc điền vua Lê cấp hiến cho chùa, lại công đức tiền của và đứng ra xây dựng lại chùa theo kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm 5 gian Tam bảo và 3 gian Hậu cung, phía sau là nhà Tổ. Ông cũng cho đúc lại chuông đồng và khánh đá, trên đó có khắc bài minh do Nguyễn Quý Đức soạn, đến nay vẫn còn được lưu giữ. Tại chùa còn tấm bia Trùng tu Trùng Quang Tự bi ký, dựng năm Vĩnh Thịnh (1706-1719), cũng do Nguyễn Quý Đức soạn. Đến nay, chùa vẫn giữ nguyên kiến trúc thời Lê, đẹp đẽ, nép mình dưới những cây cổ thụ. Trùng Quang Tự cũng đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử.

Nguyễn Quý Đức cũng đã cắt 4 mẫu lộc điền của mình, hiến cho làng để lập chợ Lão, một số thư tịch ghi là chợ Khánh Nguyên, xưa kia thu hút người tứ xứ đến mua bán rất đông vui. Nguyễn Quý Đức cũng công đức tiền của và đứng ra xây dựng cầu Thiên Khánh (dân gian thường gọi là cầu Đôi) bắc qua sông Nhuệ và cho đắp rộng con đường từ cầu Đôi đến làng Cót, để dân vùng Mỗ lên Thăng Long thuận tiện hơn...

Nguyễn Quý Đức qua đời năm Canh Tý (1720), để lại nhiều di tích có giá trị. Đó là quần thể di tích xã Đại Mỗ, một điểm du lịch có chiều sâu văn hóa của Hà Nội. Đó là Văn Miếu, di tích lịch sử - văn hóa quan trọng của đất nước. Những giá trị lịch sử và văn hóa ở các di tích đó, đều có đóng góp tâm huyết của tài năng lớn Nguyễn Quý Đức!

    Nổi bật
        Mới nhất
        Dấu ấn Nguyễn Quý Đức trong các di tích ở Hà Nội
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO