Lịch sử của Đạo luật E-Sign
Ngay từ đầu, Đạo luật E-Sign đã được Quốc hội Mỹ ủng hộ đáng kể. Một trong những người ủng hộ nhiệt tình nhất là Spencer Abraham, Thượng nghị sĩ từ Michigan, người tin rằng dự luật sẽ thúc đẩy thương mại điện tử bằng cách loại bỏ lo ngại về tính dễ bị tổn thương của các hợp đồng điện tử. Tại Hạ viện, Hạ nghị sĩ Tom Bliley và Hạ nghị sĩ Anna Eshoo là hai trong số các nhà lập pháp đầu tiên thể hiện sự quan tâm đến việc củng cố các hợp đồng thương mại điện tử.
Trước đó, một số dự luật liên quan đến thương mại điện tử đã được giới thiệu vào năm 1999. Trong suốt một năm, những dự luật này đã được sửa đổi, mở rộng và cuối cùng là thống nhất. Vào thời điểm Đạo luật E-Sign được Tổng thống Bill Clinton ký thành luật vào ngày 30.6.2000, một số tiểu bang đã thông qua luật liên quan đến lưu trữ hồ sơ điện tử. Tuy nhiên, những gì mà Đạo luật E-Sign đã làm cho quốc gia là thiết lập một mạng lưới thống nhất và an toàn cấp liên bang để bảo đảm rằng các hợp đồng điện tử sẽ hợp pháp cho thương mại giữa các tiểu bang và toàn cầu.
Tính hợp lệ của chữ ký điện tử
Trước khi Đạo luật E-Sign được ký kết, các doanh nghiệp thường phải loay hoay với cách xử lý các giao dịch trực tuyến. Mặc dù nhiều công ty đã chấp nhận chữ ký điện tử, nhưng vẫn có những câu hỏi đặt ra là những chữ ký này sẽ có giá trị như thế nào trước tòa.
Đạo luật E-Sign xác nhận rằng chữ ký điện tử có vị thế pháp lý giống như chữ ký bằng bút trên giấy và hợp đồng hoặc hồ sơ giao dịch có thể không bị từ chối hiệu lực pháp lý hoặc bị phán quyết là không thể thi hành chỉ vì nó ở dạng điện tử. Mười một năm đã trôi qua kể từ khi Đạo luật E-Sign được ký thành luật và nhiều phiên tòa đã hoàn toàn ủng hộ tính toàn vẹn về mặt pháp lý của chữ ký điện tử.
Đạo luật này được áp dụng rộng rãi trong các thỏa thuận hiện có được chuyển giao dưới dạng điện tử trước ngày 1.10.2000, mặc dù tất cả các thỏa thuận được thực hiện sau ngày đó phải tuân theo các nguyên tắc quy định trong Đạo luật E-Sign để được coi là ràng buộc về mặt pháp lý.
Giữ lại tài liệu gốc
Doanh nghiệp phải lưu giữ bằng chứng về các thỏa thuận hợp đồng để đáp ứng các yêu cầu của pháp luật và để làm rõ bất kỳ thắc mắc nào trong tương lai về tính hợp pháp của hợp đồng hoặc chi tiết của các điều khoản cụ thể. Điều này đúng cho dù tài liệu ở định dạng giấy hay điện tử. Một trong những ưu điểm của dịch vụ phần mềm chữ ký điện tử là lưu trữ các thỏa thuận đã thực thi trong một kho lưu trữ trực tuyến an toàn, dễ dàng đáp ứng các yêu cầu lưu giữ. Các nguyên tắc yêu cầu rằng các hồ sơ này vẫn chính xác và có thể truy cập được đối với tất cả các bên liên quan trong một khoảng thời gian được xác định bởi cơ quan nhà nước hoặc cơ quan quản lý có thẩm quyền đối với một loại tài liệu, hợp đồng hoặc giao dịch cụ thể.
Những ngoại lệ đối với Đạo luật E-Sign
Mặc dù Đạo luật E-Sign đã được ca ngợi vì tính toàn diện của nó, nhưng Đạo luật này không áp dụng cho mọi loại văn bản, giấy tờ. Một số loại hợp đồng và tài liệu không thuộc phạm vi điều chỉnh của Đạo luật E-Sign. Bao gồm: di chúc; thủ tục nhận con nuôi; sắc lệnh ly hôn; một số lĩnh vực nhất định của Bộ luật thương mại thống nhất; lệnh và thông báo của tòa án; các tài liệu chính thức của tòa án; thông báo về việc chấm dứt các dịch vụ tiện ích; thông báo về việc vỡ nợ, tịch thu nhà, tịch thu hoặc trục xuất; việc hủy bỏ quyền lợi bảo hiểm; thu hồi sản phẩm hoặc thông báo về lỗi vật liệu; tài liệu kèm theo việc vận chuyển vật liệu nguy hiểm.