Bản án thứ 8
TAND tỉnh Đắk Lắk vừa ban hành bản án phúc thẩm (lần 3) vụ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (HĐCNQSDĐ) giữa nguyên đơn vợ chồng ông Võ Ngọc Hùng và bà Đặng Thị Kiều; bị đơn là vợ chồng ông Y Miên Mlô và bà Đặng Thị Thuỳ Lan (cùng ngụ TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk).
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn tham dự phiên toà là Luật sư Nguyễn Văn Lộc (Văn phòng Luật sư Đức Lưu); Người đại diện cho bị đơn là ông Phan Ngọc Nhàn (ngụ tỉnh Đắk Lắk).
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, HĐXX nhận định:
Ngày 30.5.2012, tại Phòng Công chứng nhà nước số 1 tỉnh Đắk Lắk, vợ chồng ông Y Miên ký HĐCNQSDĐ tổng diện tích 35.775m² (tại xã Đliê Ya, huyện Krông Năng) cho vợ chồng ông Hùng. Ngày 15.6.2012 vợ chồng ông Hùng được UBND huyện Krông Năng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số BG 629544.
Tuy nhiên, do diện tích đất nhận chuyển nhượng đo đạc thực tế không đủ so với hợp đồng, nên vợ chồng ông Hùng khởi kiện, yêu cầu vợ chồng ông Y Miên giao đủ diện tích đất.
Sau khi bị kiện, vợ chồng ông Y Miên có đơn phản tố, yêu cầu trả tiền chuyển nhượng vì cho rằng vợ chồng ông Hùng chưa thanh toán đủ tiền nhận chuyển nhượng, cụ thể: Giá chuyển nhượng 35.775m² đất là hơn 1,9 tỷ đồng, sau khi khấu trừ 490 triệu đồng nợ theo Giấy xác nhận ngày 29.5.2012 thì nguyên đơn còn nợ bị đơn hơn 1,4 tỷ đồng.
Theo HĐXX, từ diễn biến sự việc có thể thấy việc mua bán đất nêu trên xuất phát từ việc bị đơn nợ nguyên đơn 2 tỷ đồng theo Giấy biên nhận ngày 30.8.2010. Căn cứ vào lời khai của phía bị đơn thì có việc vay nợ 2 tỷ đồng, là tiền góp vốn làm ăn chung, tổng kết thì còn nợ 490 triệu đồng nên đã viết Giấy xác nhận nợ ngày 29.5.2012. Bị đơn cho rằng có nhận tiền góp vốn của nguyên đơn và đã thanh toán, nhưng không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng minh về việc thanh toán.
Mặc dù bị đơn không thừa nhận về nội dung thỏa thuận chuyển nhượng đất để khấu trừ nợ, HĐCNQSDĐ được các bên ký kết sau khi đối chiếu nợ. Tuy nhiên, có cơ sở để xác định trước khi ký HĐCNQSDĐ các bên đã chuẩn bị các điều kiện để đảm bảo việc chuyển nhượng. Như vậy, lời khai của nguyên đơn về việc vay tiền cho bị đơn trả nợ để giải chấp tài sản thế chấp là có căn cứ.
Bị đơn không đưa ra được tài liệu chứng cứ để chứng minh việc đồng ý chuyển nhượng khu đất với tổng số tiền phải thanh toán là hơn 1,9 tỷ đồng, sau khi khấu trừ 490 triệu đồng nợ theo Giấy xác nhận ngày 29.5.2012 thì nguyên đơn còn nợ số tiền nhận chuyển nhượng đất là 1,4 tỷ đồng.
Theo HĐXX, do xác định nguyên đơn đã hoàn tất việc thanh toán tiền chuyển nhượng đất cho bị đơn bằng hình thức khấu trừ nợ. Nhưng diện tích đất tranh chấp đã được bị đơn chuyển cho bên thứ 3 ngay tình, nên cấp sơ thẩm tuyên HĐCNQSDĐ giữa hai bên được ký kết vào ngày 30.5.2012 vô hiệu và buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường hiện nay theo kết quả định giá là hơn 3 tỷ đồng là có căn cứ.
Từ những phân tích trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 35.775m²; Tuyên bố HĐCNQSDĐ giữa nguyên đơn với bị đơn là vô hiệu; Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền hơn 3 tỷ đồng.
11 năm gian truân kiện cáo
Trước đó, Báo Đại biểu Nhân dân đã thông tin, vụ án này từng trải qua 4 cấp toà với 3 bản án sơ thẩm, 2 bản án phúc thẩm, 2 quyết định giám đốc thẩm lại quay về "điểm ban đầu" sau 11 năm gian truân kiện cáo.
Cụ thể, ngày 4.12.2012, vợ chồng ông Hùng khởi kiện. Ngày 22.9.2014, TAND huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm: Không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn về việc bàn giao khu đất và tuyên hủy HĐCNQSDĐ giữa 2 bên. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn trả 490 triệu đồng tiền nợ.
Vợ chồng ông Hùng kháng cáo. Ngày 5.2.2015, TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm. Sau đó UBND huyện Krông Năng đã hủy sổ đỏ của vợ chồng ông Hùng.
TAND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị. Ngày 12.1.2018 TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử Giám đốc thẩm: Hủy Bản án sơ thẩm của TAND huyện Krông Năng và Bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Đắk Lắk. Giao hồ sơ cho TAND huyện Krông Năng xét xử lại.
Ngày 2.3.2020 TAND huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm (lần 2), chấp nhận một phần khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả 490 triệu đồng tiền nợ nhưng không tính lãi.
Ngày 1.4.2020 Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk kháng nghị. Ngày 5.10.2020 TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm (lần 2), chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả số tiền nợ gốc là 490 triệu đồng và hơn 313 triệu đồng tiền lãi.
Ngày 11.5.2021, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị. Ngày 9.7.2021, TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử Giám đốc thẩm (lần 2) hủy Bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Đắk Lắk và Bản án sơ của TAND huyện Krông Năng, giao hồ sơ cho TAND huyện Krông Năng xét xử lại từ đầu.
Ngày 4.7.2023 TAND huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm (lần 3): Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc bị đơn phải trả số tiền hơn 3 tỷ đồng là giá trị của khu đất ở thời điểm hiện tại. Ngày 19.7.2023 Viện trưởng VKSND huyện Krông Năng kháng nghị.
Ngày 12.12.2023 TAND tỉnh Đắk Lắk đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm (lần 3). Hiện bản án phúc thẩm (lần 3) của TAND tỉnh Đắk Lắk đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, vụ án đã có hồi kết sau 11 năm với 8 bản án của 4 cấp toà.