ĐẠI HỘI TÂN TRÀO: HIẾN CHÍNH DÂN TỘC DÂN CHỦ
>> Bài 1: Những mầm mống tư tưởng Hiến chính
>> Bài 2: Định hướng Nhà nước pháp quyền dân chủ
Bài 3: Định hình Hiến chính dân chủ *
Tư tưởng Hiến chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được định hình rõ nét từ ngày Bác bước qua biên giới Việt - Trung trở về Tổ quốc.
Như đã trình bày, nếu qua 15 năm suy nghĩ, từ ngày chuẩn bị thành lập Đảng ở Quảng Châu (1925) đến ngày sản sinh ra Mặt trận Việt Minh ở Pác Bó (Cao Bằng năm 1941), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dứt khoát định hướng Hiến chính cho dân tộc Việt Nam là Cộng hòa dân chủ - thì trong suốt thời gian 5 năm sau, cùng với Trung ương Đảng chuẩn bị và tổ chức nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần, Người trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng từng bước chính quyền nhân dân. Đó là chính quyền của toàn dân, dựa vào lực lượng đoàn kết chiến đấu của Mặt trận dân tộc thống nhất, trên những miếng đất giành giật được từ tay kẻ thù Pháp - Nhật.
Từng bước xây dựng chính quyền nhân dân
1. Ở những thôn, những xã hoàn toàn giải phóng, quân đã làm chủ và kiểm soát được thường xuyên thì Ủy ban nhân dân cách mạng do các giới đồng bào, các Hội cứu quốc cử lên thay hẳn bộ máy cai trị của Nhật - Pháp làm chức năng chính quyền. Về thực chất cũng như về danh nghĩa, đó là chính quyền nhân dân địa phương. Địa bàn chính quyền nhân dân ngày càng mở rộng, chính quyền ấy thi hành Mười chính sách của Việt Minh. Ủy ban nhân dân cách mạng căn cứ vào Mười chính sách đặt ra các quy tắc: Bảo vệ làng tập quân sự, đóng góp lập quỹ công thu chi, chia lại ruộng đất công, giảm tô, tức, hoãn nợ, tịch thu ruộng đất của thực dân và việt gian, tạm cấp cho nhân dân. Tổ chức khai hoang, tăng gia sản xuất, mở trường dạy chữ, dạy sử, vệ sinh, bài trừ hủ tục… các quy tắc ấy bảo vệ và bảo đảm các nguyên tắc và lợi ích của toàn dân thực chất là mầm mống của chế độ pháp quyền dân chủ tự quản kiểu mới, khi có việc đặc biệt quan trọng ở thôn, xã như chiến đấu chống giặc, khai hoang, đắp đê, bầu cử, miễn nhiệm cán bộ thì Ủy ban nhân dân triệu tập toàn dân địa phương bàn bạc quyết định. Một dạng dân chủ trực tiếp và hoạt động của chính quyền cách mạng ở cơ sở làm ta nhớ đến định chế Hương ước, khoán ước của cộng đồng làng xã xa xưa mà Hồ Chủ tịch đã nói tới bằng danh từ “Tự trị”.
2. Đến những năm 1944 - 1945, nhiều tỉnh đã được lần lượt giải phóng. Cao, Bắc, Lạng, Hà, Tuyên, Thái làm manh nha khu giải phóng Việt Bắc. Vùng giải phóng mở rộng, hình thức chính quyền dân chủ trực tiếp tự nhiên tiến lên dân chủ đại diện, Đại hội toàn dân trở thành Đại hội Đại biểu toàn dân và cử ra Ủy ban nhân dân thay mặt mình làm việc quản lý thường xuyên và chịu trách nhiệm trước đại hội đại biểu. Đầu năm 1945 thì 6 tỉnh Việt Bắc hình thành Khu giải phóng Việt Bắc có Ủy ban nhân dân lâm thời của khu do Mặt trận Việt Minh cử ra.
3. Vào tháng 10.1944 Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ sự sụp đổ của Đức, Nhật sắp đến rồi, nên Người đã nghĩ đến triệu tập Đại hội Đại biểu Việt Minh toàn quốc và Người viết thư gửi toàn thể đồng bào và thư gửi toàn thể đồng chí, đề xuất một vấn đề cực kỳ quan trọng, Người nói: “Chúng ta trước hết phải có một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành, đoàn kết và nhất trí của toàn thể quốc dân ta, mà cái cơ cấu ấy thì phải do một cuộc toàn quốc đại biểu đại hội gồm tất cả các đảng phái và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu ra, một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc, cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các nước hữu bang”.
Công việc cứu quốc và kiến quốc giao thiệp với các nước hữu bang sẽ tiến hành dựa vào Mười chính sách của Mặt trận Việt Minh mà Đại hội ấy sẽ ban bố.
Đại hội ấy là Đại hội Tân Trào họp những ngày 16 - 17.8.1945. Đại hội Tân Trào và Chương trình Mười điểm không quy định gì về bộ máy nhà nước cách mạng. Nhưng phải nói gì hơn nữa khi cấp cao nhất của chính quyền nhân dân lâm thời đã kia - kìa - đứng sừng sững trước mặt mọi người như một trái núi. Một Hội nghị Diên Hồng kiểu mới mang cơ cấu liên hiệp toàn dân, bước cuối cùng chói lọi của cả một quá trình sáng tạo dưới ngọn đuốc tư duy Hiến chính dân tộc dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cái bất biến trong tư tưởng Hiến chính
Với tất cả lòng thành đối với lãnh tụ, tôi đã mạo muội tìm hiểu sơ bộ quá trình hình thành tư duy Hiến chính của Người. Từ những điểm vừa trình bày, phải chăng tôi có thể khẳng định: Hiến chính Hồ Chí Minh mà Cách mạng tháng Tám xác nhận và thực thi bằng Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp nước Việt Nam Cộng hòa dân chủ bằng hệ thống Quốc hội và Hội đồng nhân dân - Ủy ban hành chính xuất hiện dồn dập là một Hiến chính dân tộc và dân chủ, mang đậm nét sắc thái đất nước và con người Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển dân tộc và dân chủ trên thế giới.
Cũng là dân tộc nhưng tính dân tộc cao hơn hẳn bất kỳ ở đâu. Điều 1 Chương trình Việt Minh tuyên bố: “Giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập - hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta quét sạch nó đi: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”. Độc lập hoàn toàn theo đúng những nguyên tắc dân tộc bình đẳng và dân tộc tự quyết đầy đủ bốn đặc trưng: Độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, như đã được ghi trong các Hiệp định quốc tế sau này về Việt Nam.
![]() Bức họa Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào ngày 16.8.1945 |
Cũng là dân chủ, nhưng dân chủ ở Việt Nam là hết sức rộng rãi, chưa từng thấy trong lịch sử. Điều 1 Hiến pháp năm 1946 dựa trên Điều 1 của Chương trình Việt Minh và thực tiễn xây dựng chính quyền vùng giải phóng quy định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giầu, nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Tiêu biểu nhất là chế độ phổ thông đầu phiếu, phổ thông đến cực kỳ. Mọi công dân đều đi bầu, không loại trừ ai, không cần điều kiện gì, không biết đọc, biết viết cũng không hề gì! Mù chữ thì người dân Việt Nam vẫn yêu nước, quý dân chủ. Tôi nhớ Hồ Chủ tịch đã “Đánh thông” như vậy cho ai đó còn thắc mắc trong Ủy ban dự thảo Hiến pháp: “Người ta không viết được vào phiếu bầu thì ban bầu cử sẽ giúp đỡ. Khó gì đâu, thiếu gì cách”.
Cùng với quyền phổ thông đầu phiếu Chương trình Việt Minh trong Điều 5 ghi: “Nhà nước ban bố cho dân nhân quyền, dân quyền, tài quyền (quyền sở hữu), còn Hiến pháp thì ghi: “Bảo đảm quyền tư hữu tài sản của công dân” (Điều 13). Đồng thời ghi: “Bảo đảm quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay” (Điều 14). Trong khi Chương trình Việt Minh ghi cụ thể hơn, trong các Điều 5, 6: “Chia lại công điền, giảm tô, tức… luật lao động 8 giờ”… Đó là khuynh hướng của Hiến chính dân chủ ở Việt Nam chú trọng các quyền và lợi ích của “Dân chúng số nhiều”. Ở cấp chính quyền cơ sở thì chú trọng quyền tự quản (tự trị) của cộng đồng làng xã, cũng là một dạng về tổ chức của khuynh hướng xã hội, chứ không nói khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Ta nhớ Hồ Chủ tịch năm 1946 đã tuyên bố trước Quộc hội, trước quốc dân và trước thế giới: “Tôi chỉ có một Đảng, Đảng Việt Nam”.
Cách mạng luôn tiến triển thì lẽ tự nhiên, Hiến chính cũng tiến triển theo. Cộng hòa dân chủ tiến lên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở nửa nước rồi trên cả nước. Có điều như Đại hội VI của Đảng nhận định, sự tiến triển đó đã bị chúng ta đẩy lên quá vội. Bởi tư tưởng chủ quan duy ý chí. Cho phép tôi nói thêm rằng, chúng ta mắc sai làm nghiêm trọng vì không nắm vững cái bất biến trong tư tưởng Hiến chính của Hồ Chủ tịch. Cái bất biến đó là: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do về bình đẳng về quyền lợi”. Cái bất biến trong lý trí và tình cảm của Người là: “Nhân đạo và chính nghĩa” là “Yêu nước, thương nòi”, là “Bầu ơi thương lấy bí cùng, dẫu rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Khác giống đã thế thì khác giai cấp càng phải thế chứ! Cho nên ở nước Việt Nam đã độc lập, tự do rồi, nếu cần thay đổi chế độ kinh tế và chính trị thì phải được toàn thể quốc dân ưng thuận(1), thực sự tự nguyện, thật sự giác ngộ, một sự giác ngộ dựa trên cơ sở những tiền đề kinh tế - xã hội và văn hóa, khoa học hiện thực, hiển nhiên, đầy đủ, không một chút gượng gạo, hoặc áp đặt làm khác đi là tai hại.
May thay! Nghị quyết Đại hội Đảng VI và VII Hiến pháp năm 1992 đã mở ra xu hướng “Đổi mới” quay về nguồn, cụ thể là quay về tư tưởng Hiến chính chân chất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Người chủ trương lập Mặt trận Việt Minh “Đoàn kết - đoàn kết - đại đoàn kết”, chủ trương triệu tập Đại hội Tân Trào với một cơ cấu liên hiệp chính trị cao độ, khi Người viết bản Tuyên ngôn Độc lập - Bình tây đại cáo - Thiên cổ hùng văn và chỉ đạo việc soạn thảo bản Hiến pháp năm 1946 dân tộc và dân chủ mẫu mực kiểu mới, dân tộc “Hoàn toàn độc lập”, dân chủ cho “toàn dân” với khuynh hướng xã hội rõ rệt. Để con cháu Lạc Hồng mãi mãi tiến bước trên con đường vinh quang hạnh phúc cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại nhằm lý tưởng “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Để đổi mới thắng lợi chúng ta quyết tâm trở về nguồn, trở về cái lõi “pháp lý tự nhiên, pháp lý nhân bản vĩnh hằng” chứa đựng trong tư tưởng Hiến chính sáng ngời chân lý của Bác Hồ làm nền cho Hiến pháp 1946 và cả hệ thống luật cho 15 năm pháp quyền Cộng hòa dân chủ.
Minh Phương giới thiệu
___________
(1). Theo Điều 21 Hiến pháp năm 1946 về quyền phúc quyết
* Tít bài và tít xen do Đại biểu Nhân dân đặt