Quốc hội và Cử tri

Đại biểu Quốc hội phải giữ mối liên hệ thường xuyên với cử tri

TS. Bùi Ngọc Thanh - Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội 28/07/2025 07:01

Đại biểu dân cử và cử tri có mối quan hệ khăng khít với nhau. Đại biểu muốn có chất liệu tươi mới từ cuộc sống thực tiễn phục vụ cho hoạt động của mình thì không thể không gắn bó mật thiết với cử tri.

Cử tri muốn phản ánh tức thời nguyện vọng, tâm tư với các cơ quan cấp cao của Nhà nước thì con đường trực tiếp, ngắn nhất là thông qua đại biểu, người đại diện chính thống cho mình. Bởi vậy, Điều 51 Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành đã quy định, “Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan”.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn với cử tri. Ảnh Lâm Hiển

Điều quan trọng bậc nhất để cử tri còn biết đến đại biểu không có gì khác là đại biểu phấn đấu hoạt động đúng như luật định. Trong ba khóa tham gia Quốc hội, tôi hân hạnh được làm đại biểu ở hai tỉnh, cách nhau hơn 300km. Khóa IX là đại biểu của tỉnh Lạng Sơn, Khóa X và XI là đại biểu của tỉnh Thanh Hóa. Tuy đã thôi làm nhiệm vụ đại biểu từ tháng 8/2007 đến nay, nhưng tôi vẫn nhận được lời thăm hỏi, đơn, thư của một số cử tri ở hai tỉnh đó và một số địa phương khác. Có nhiều hoạt động để giữ mối liên hệ với cử tri, nhưng trong phạm vi này chỉ xin nêu lên ba hoạt động mà đại biểu nào cũng phải thực hiện:

1 - Tiếp xúc cử tri: đại biểu phải cố gắng tham dự tất cả các cuộc tiếp xúc, lắng nghe và trân trọng mọi ý kiến; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội, giá trị thông tin làm mục tiêu tiếp xúc. Cùng là các vấn đề kinh tế - xã hội của một tỉnh, nhưng ở mỗi vùng, mỗi huyện có những nét đặc trưng riêng. Con người, phong tục, tập quán cũng có những nét riêng. Đại biểu có quan tâm, gắn bó với những nơi đó thì mới có được thông tin quý báu để liên hệ với các địa phương khác xem nó có là vấn đề chung ở tầm vĩ mô hay chỉ là hiện tượng cá biệt, của một nơi. Nếu là hiện tượng chung thì rất có thể đề xuất thành chính sách chung, từ đó có thể giúp được cử tri những việc thiết thực. Có thể dẫn ra một vài ví dụ: năm 1992 tôi được phân công tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu cử số 1, gồm các huyện Bắc Sơn, Bình Gia, Văn Quan, Chi Lăng và Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn. Trong buổi tiếp xúc ở Bắc Sơn, có một cử tri tuổi trung niên trong bộ quân phục bạc màu xin phát biểu. Anh không đợi chủ tọa mời mà đứng phắt dậy nói luôn, giọng khá bộc trực pha lẫn chút bức xúc: thực ra dân tình chúng tôi muốn nghe nói nhiều nữa vì không mấy khi có đại biểu ở Trung ương về nói nhiều chuyện, nhưng chủ tọa kêu gọi thì tôi xin nói: mấy anh em chúng tôi đây (anh chỉ vào ba, bốn người xung quanh cùng sắc phục) đi chiến đấu trong Nam về sau giải phóng, may còn sống “mang được thân xác” trở về với quê hương, gia đình là hạnh phúc hơn những đồng đội đã hy sinh nằm lại chiến trường, nhưng đến bây giờ chúng tôi cũng chẳng có chút chế độ, chính sách gì; “mẹ già, vợ dại, con dốt, nhà dột”. Anh ở Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, anh có giúp anh em chúng tôi giải quyết được gì không? (khi ấy tôi còn công tác ở Bộ).

Ý kiến của cựu chiến binh này canh cánh bên lòng, làm tôi suy nghĩ rất nhiều và ghi thành một “điểm nhấn” trong chương trình công việc của Ủy ban Về các vấn đề xã hội, thông tin cho Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đồng thời tập hợp thành vấn đề báo cáo ra Ủy ban Thường vụ Quốc hội khi xây dựng chính sách người có công. Tuy nhiên xử lý các vấn đề người tham gia các cuộc kháng chiến giải phóng đất nước thì “thứ tự” là Liệt sĩ, thân nhân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người bị địch bắt tù đày, bà mẹ có con hy sinh rồi mới đến các đối tượng khác. Điều vui mừng là thông tin của chúng tôi từ lâu đã được lưu ý và ở nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XII, Chính phủ đã giải quyết chính sách đối với một loại đối tượng đông nhất - quân nhân phục viên, xuất ngũ từ 30/4/1975 trở về trước, bao gồm cả bộ đội tham gia kháng chiến chống Pháp; tùy theo thời gian tham gia quân ngũ mà có khoản trợ cấp nhất định. Mới đây nhất là Nghị định số 23/2012 ngày 3/4/2012 của Chính phủ quy định một số chế độ đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đây là một chính sách tương đối hoàn thiện về nhiều mặt...

Một ví dụ khác: ngày 30/10/2001, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 168/2001/TTg về định hướng kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh Tây Nguyên. Đến ngày 7/12/2001, Thủ tướng Chính phủ lại có Quyết định số 186/2001/TTg về phát triển kinh tế - xã hội 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền Núi phía Bắc thời kỳ 2001- 2005 (Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang). Trong hai Quyết định trên có những ưu tiên đầu tư vốn từ ngân sách nhà nước, xây dựng cơ sở hạ tầng và một số chính sách ưu tiên khác cho các địa phương đó. Đầu năm 2003, chúng tôi tiếp xúc cử tri đơn vị bầu cử số 1 tỉnh Thanh Hóa gồm 6 huyện miền Núi (Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa, Quan Sơn và Mường Lát), cử tri vùng Núi cao (Quan Sơn, Mường Lát) đều phát biểu giống nhau: thưa với các vị đại biểu Quốc hội, các huyện vùng núi cao của Thanh Hóa ta như các vị đã biết, có khác gì 6 tỉnh vùng núi phía Bắc, thậm chí đất đai sản xuất, đường sá giao thông đi lại... còn khó khăn hơn nhiều mà không được Chính phủ ưu tiên gì thì thật là chưa công bằng giữa đồng bào miền núi và dân tộc trong cả nước. Đề nghị các đại biểu phản ánh ý kiến của chúng tôi với Quốc hội và Chính phủ xem xét.

Là người đã đi khắp các tỉnh miền núi phía Bắc và nhiều lần đi lại trên địa bàn đơn vị bầu cử số 1, tôi nhận ra ngay tính đúng đắn trong ý kiến của cử tri. Đoàn đại biểu Quốc hội Thanh Hóa đã tập hợp ý kiến đó, báo cáo với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, và tôi đã trực tiếp phát biểu tại phiên họp toàn thể thảo luận kinh tế - xã hội của kỳ họp. Ý kiến của chúng tôi đã được nhiều đại biểu hưởng ứng, đồng thuận; có đại biểu đã nói vui rằng, mong Chính phủ có “một cái CP hay TTg nào đó” cho những nơi có cùng cảnh ngộ như nhau. Lần này hiệu ứng rất nhanh, sau khi xem xét, Chính phủ đã ra văn bản kịp thời mà nội dung cốt lõi là, các tỉnh không phải là tỉnh miền núi (nhất là các tỉnh Trung bộ) thì các huyện có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đều được áp dụng chính sách như 6 tỉnh miền núi phía Bắc và các tỉnh Tây Nguyên...

Còn khá nhiều chuyện tương tự như thế, không thể kể dài dòng, song nếu biết gợi mở, biết trao đổi thông tin thiết thực thì cử tri sẽ cung cấp cho đại biểu rất nhiều thông tin phong phú, đa chiều, nhiều mặt, thuận nghịch từ thực tiễn cuộc sống. Chính việc trao đổi thông tin qua lại, giải đáp được những khúc mắc cho cử tri sẽ là sự gắn kết khăng khít giữa cử tri và đại biểu.

Còn khi báo cáo kết quả kỳ họp với cử tri thì một mặt đại biểu phải tóm tắt, khái quát nêu bật lên được nội dung, kết quả chủ yếu của kỳ họp, mặt khác lại phải chọn lọc những vấn đề thiết thực nhất, phù hợp nhất với địa phương để nói với cử tri (gồm cả các vấn đề kinh tế - xã hội và cả các đạo luật vừa được Quốc hội thông qua).

2 - Tiếp công dân: khi tiếp công dân, đại biểu phải thật sự nhiệt thành, tìm hiểu rõ công việc của họ để có phương án xử lý tương thích. Tại nơi tiếp công dân rất có thể chúng ta gặp các dạng (trường hợp) sau đây:

Công dân gặp đại biểu để tìm hiểu chế độ, chính sách một cách thực lòng. Đây thường là các cử tri ở những vùng nông thôn xa xôi, ít có điều kiện tiếp xúc với các nguồn thông tin, khi cần thì không biết hỏi ai cho chắc chắn. Chính vì thế, đại biểu nên lượng ước, chuẩn bị sẵn các tài liệu cần thiết, thời sự nhất, nhất là lĩnh vực mình hoạt động để có thể giải đáp thỏa mãn yêu cầu của cử tri. Nếu có việc cụ thể thì có thể hướng dẫn họ. Tôi đã từng thực hiện như vậy. Nhiều lần tôi đã tóm tắt một số chế độ, chính sách các lĩnh vực lao động, việc làm, tiêu chuẩn, mức ưu đãi đối với các nhóm đối tượng người có công...để trao đổi khi tiếp công dân. Một số trường hợp được cung cấp tài liệu sau khi tiếp, cử tri rất hài lòng.

- Có những cử tri, công việc của họ đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhưng họ không thỏa mãn, nếu có đại biểu mới tiếp công dân, họ đặt lại vấn đề từ đầu. Trong các buổi tiếp khác nhau mà các đại biểu nói khác nhau là họ có cớ để khiếu kiện tiếp. Ý kiến của đại biểu nào mà họ thấy có thể bấu víu được là họ “đeo bám”. Đoàn đại biểu Quốc hội Thanh Hóa đã có kinh nghiệm là, ghi chép lại toàn bộ các buổi tiếp công dân; hệ thống hóa lại toàn bộ diễn biến các vụ việc lớn, bức xúc để người tiếp phiên sau nắm được tình hình, trả lời nhất quán. Các trường hợp này có xu thế phát triển, đòi hỏi đại biểu khi tiếp phải cân nhắc rất cẩn trọng.

- Có những trường hợp không buổi tiếp nào là công dân đó không có mặt cùng với một số người. Đó có thể là những trường hợp khiếu kiện hộ, thậm chí là “dịch vụ” khiếu kiện. Đại biểu tiếp phải cố gắng nắm vững sự việc, nhẫn nại, mềm mỏng nhưng rất kiên quyết, chỉ mời người đứng đơn (chủ sự) cùng làm việc và chỉ ghi nhận những tình tiết mới (nếu đã tiếp lần trước).

Nói chung tiếp công dân là phải nhẫn nại, nhiệt tình, tận tâm; người thật sự có vụ việc cần giải quyết, đại biểu phải cố gắng đưa ra được hướng xử lý hợp lý (sẽ làm việc với ai, cấp nào, trong đó những chi tiết nào cần làm sáng rõ...).

3 - Tiếp nhận được đơn, thư của công dân: khi tiếp nhận được đơn, thư của công dân, đại biểu cần đọc kỹ , nắm vững nội dung để có cách xử lý thích hợp. Việc thông thường đầu tiên là phải phân loại đơn, thư; có thể có các loại đơn, thư như, phản ánh các vụ việc tiêu cực (tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức quyền mưu cầu lợi ích cá nhân, lấn chiếm đất đai...); đề nghị giải quyết chế độ, chính sách; khiếu nại về quyết định hành chính, quyết định về các bản án; xem có đơn, thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp không; có đơn, thư đã được gửi nhiều lần không... Sau khi phân loại thì xem xét, suy nghĩ phương án xử lý. Đứng trên góc độ của đại biểu, có thể xử lý theo hai cách. Một là, những đơn, thư phải được chuyển đến người, cơ quan có thẩm quyền giải quyết, loại này thường chiếm tuyệt đại đa số. Hai là, những đơn, thư bản thân mình có thể giải quyết hoặc hướng dẫn người gửi đơn, thư tự xử lý, số này thường rất ít.

Đối với đơn, thư phải được gửi đến người, cơ quan có thẩm quyền giải quyết: việc này trước tiên đòi hỏi đại biểu phải nắm chắc hệ thống tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương; nắm vững chức năng, nhiệm vụ cơ bản của các loại cơ quan (lập pháp, hành pháp, tư pháp) để có thể chuyển đến đúng địa chỉ. Trong thực tế đã có nhiều đơn, thư bị chuyển lòng vòng (lên trung ương, về địa phương; chuyển ngang, chuyển dọc...) làm cho công dân mất lòng tin, trong đó có nguyên nhân đại biểu không biết rõ nơi nào giải quyết vấn đề đúng nhất theo yêu cầu của đơn, thư. Lẽ thường, người gửi đơn, thư đi, họ rất mong đợi sự hồi âm, vì vậy đại biểu phải thông báo đã nhận được đơn và đã xử lý như thế nào (nếu chuyển thì chuyển đến cơ quan nào, bộ phận công tác nào để họ biết và theo dõi). Khi có hồi âm của cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì cũng phải nghiên cứu kỹ và khẩn trương thông báo cho công dân.

Đối với đơn, thư mà bản thân đại biểu có thể giải quyết hoặc hướng dẫn giải quyết: trường hợp đại biểu có thể giải quyết là rất hiếm, đó là đơn, thư thắc mắc về một vấn đề trong một luật, một pháp lệnh nào đó. Cũng có thể là một việc mà mình lượng ước, bỏ ra chút thời gian, công sức “chạy” thì nhanh hơn “kính chuyển”. Đó là các trường hợp đúng vào những nơi mình từng làm việc hoặc quen biết sâu sắc, nắm bắt vấn đề khá chắc chắn, có thể đề xuất cách giải quyết ngay với cơ quan, tổ chức làm công việc đó. Tôi đã từng trực tiếp giúp công dân xử lý chế độ, chính sách thương binh, gia đình liệt sĩ cho nhiều trường hợp cả ở địa phương mình ứng cử và cả ở các địa phương khác; đã từng “can thiệp” với doanh nghiệp trả lại quyền lợi cho một số người lao động (được nhận lại làm việc, được khôi phục lại mức lương trước khi bị xử lý) theo đúng pháp luật... Xử lý trực tiếp những vụ việc này bao giờ cũng phức tạp, hao tổn thời gian, vì vậy đại biểu phải có lòng nhiệt tình, có sự kiên nhẫn, coi công việc của công dân như công việc của mình thì mới thực hiện được. Khoảng một chục trường hợp mà tôi trực tiếp xử lý, giải quyết được, công dân vô cùng cảm động, phấn khởi, hồ hởi.

Tóm lại, việc duy trì mối liên hệ với cử tri đòi hỏi đại biểu phải có sự kiên trì và nỗ lực vượt bậc:

Bản thân đại biểu phải có hàm lượng kiến thức đạt đến một trình độ nhất định; rộng càng tốt, sâu càng hay. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu rộng lớn, đa dạng của các tầng lớp cử tri. Mặt khác đại biểu có hiểu biết nhất định thì mới có khả năng tiếp nhận được đầy đủ ý kiến của các loại cử tri (thực tế có những ý kiến đơn giản, thông thường, dễ nhận biết, nhưng cũng rất nhiều ý kiến mà nếu không có thực tiễn, không có hiểu biết về lĩnh vực mà cử tri phát biểu, đề đạt thì không dễ gì, tiếp nhận, xử lý được.

Phải có tinh thần, thái độ phục vụ mẫn cán, chân thực đối với người dân, coi công việc chính đáng của dân như công việc của chính mình và cố gắng xử lý đạt kết quả thì mới thu phục được lòng dân và người dân mới bộc bạch hết tâm sự, ý kiến sâu lắng của họ.

Phải có phương pháp công tác, có kỹ năng đối với mỗi loại công việc (tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, xử lý đơn, thư), vì mỗi loại công việc có mục tiêu, nội dung, đối tượng, có độ phức tạp, có mối quan hệ khác nhau. Phương pháp hợp lý sẽ đem lại kết quả hợp lý, đúng đắn, cử tri có thể tin tưởng đại biểu hơn.

Sau cùng là phải nhớ rằng, không giữ được mối liên hệ tốt,thường xuyên với cử tri thì khó có thể nói hoạt động của đại biểu là hoàn thiện, có hiệu quả cao. Bởi vậy, gắn bó mật thiết với cử tri chính là gắn kết nghị trường với cuộc sống sôi động của cuộc sống - điều kiện quan trọng hàng đầu trong hoạt động của đại biểu Quốc hội*.


(*) Trích đăng theo cuốn "Cựu đại biểu Quốc hội - Một thời để nhớ" của Câu lạc bộ Cựu đại biểu Quốc hội, Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân, năm 2025.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Đại biểu Quốc hội phải giữ mối liên hệ thường xuyên với cử tri
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO