Cụ thể hóa các quy định mới, ưu việt của Hiến pháp thành luật – yếu tố quyết định thành công thi hành Hiến pháp mới
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được QH thông qua tại Kỳ họp thứ Sáu, ngày 2.1.2014, UBTVQH đã ra Nghị quyết số 718, ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp. Các cơ quan của QH đã và đang khẩn trương triển khai thi hành Hiến pháp mới thông qua việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các điều luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực phụ trách. Là một trong những Ủy ban tiến hành sớm công việc này, Ủy ban Về các vấn đề xã hội vừa tổ chức Tọa đàm chuyên gia về các nội dung gia đình, bình đẳng giới trong Hiến pháp mới và việc sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh có liên quan.
Các quy định về gia đình, bình đẳng giới trong Hiến pháp (sửa đổi) 2013 cơ bản tiếp tục kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp mới quy định các vấn đề chung, có tính nguyên tắc liên quan đến gia đình tại Điều 16 (mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội) và Điều 26 (công dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội). Các quy định trực tiếp về hôn nhân, gia đình được Hiến định tại Điều 36: nam nữ có quyền kết hôn, ly hôn; hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Điều 60 quy định: Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc... Bên cạnh đó, một số nội dung liên quan đến gia đình, bình đẳng giới cũng đã được Hiến định trong một số điều, khoản của các Chương II Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và Chương III Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Đây là những quy định chung, mang tính nguyên tắc và định hướng. Trong quá trình triển khai thi hành Hiến pháp mới, các quy định này cần được hiểu đúng, đầy đủ và thống nhất để hoàn thiện các luật, pháp lệnh liên quan theo đúng tinh thần của Hiến pháp.
Trước hết, khi tiến hành rà soát các văn bản luật, pháp lệnh liên quan đến gia đình, cần thống nhất cách hiểu về khái niệm gia đình. Theo nguyên Viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội Nguyễn Hữu Dũng, khái niệm gia đình cần được xem xét và nhìn nhận dưới hai góc độ vĩ mô và vi mô. Theo hướng tiếp cận vi mô, khái niệm gia đình được hiểu là một nhóm xã hội nhỏ với những tiêu chí rất cụ thể bao gồm hôn nhân, cùng huyết thống và cùng chia sẻ các lợi ích cũng như nền văn hóa chung; các tiêu chí về quan hệ nuôi dưỡng, quan hệ giới; song chủ yếu vẫn là quan hệ dựa trên cơ sở hôn nhân và quan hệ huyết thống. Hiện tại, Luật Hôn nhân và gia đình của nước ta hiện nay cơ bản đang định nghĩa gia đình theo cách tiếp cận vi mô này. Khái niệm gia đình được quy định cụ thể trong Luật là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, dưới tác động của nhiều yếu tố về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống... quan niệm về gia đình cũng luôn có sự biến đổi. Ngày nay, gia đình không chỉ còn là quan hệ huyết thống dựa trên cơ sở hôn nhân mà còn bao gồm quan hệ nuôi dưỡng (không cùng huyết thống) hay gia đình khuyết thiếu (xét về cơ cấu thành viên trong gia đình, nảy sinh từ các hình thức sống mới của gia đình trong xã hội hiện đại)... Như vậy, theo cách tiếp cận vĩ mô, gia đình được hiểu như một thiết chế với cấu trúc và những chức năng xã hội nhất định về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Chức năng xã hội của gia đình liên quan chặt chẽ với các thành viên trong gia đình đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hiện nay, ở nước ta không có luật gia đình chung để điều chỉnh quan hệ gia đình theo khái niệm vĩ mô, tức là đặt quan hệ gia đình với chức năng rộng hơn như là một tiểu hệ thống trong hệ thống quan hệ xã hội lớn. Nhiều ý kiến tại Tọa đàm chuyên gia của Ủy ban Về các vấn đề xã hội cho rằng, các quy định về gia đình trong Hiến pháp mới đã đặt nền tảng cho việc sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh có liên quan theo hướng tiếp cận khái niệm gia đình ở góc độ vĩ mô. Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và một số luật khác hiện nay chưa bao quát, chưa cụ thể hóa được đầy đủ và toàn diện tinh thần của Hiến pháp mới về gia đình, nhất là quy định tại khoản 3, Điều 60 Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc... Để bảo đảm hiện thực hóa nguyên tắc này thì gia đình phải được đặt trong mối quan hệ với hệ thống xã hội rộng lớn với vai trò xã hội to lớn của gia đình và tác động trở lại của Nhà nước, xã hội đối với gia đình cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Như vậy, cần thiết phải rà soát lại tất cả các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến gia đình, phát hiện các khoảng trống, chưa phù hợp với Hiến pháp mới và thực tiễn cuộc sống để bổ sung, sửa đổi hoặc loại bỏ, bảo đảm các nguyên tắc quy định trong Hiến pháp được thực thi nghiêm túc.
Nội dung Hiến pháp 2013 có nhiều điểm tiến bộ, giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn quản lý, điều hành của đất nước sau 20 năm đổi mới. Lần đầu tiên, Hiến pháp quy định một số nguyên tắc nền tảng làm cơ sở cho việc thực hiện quyền con người, quyền công dân trong đời sống xã hội. Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền thực hiện con người, bởi đây là quyền tự nhiên vốn có. Hiến pháp cũng nêu rõ: quyền con người chỉ bị hạn chế bằng luật, trong một số trường hợp cần thiết, vì lý do an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng. Mọi sự tác động, điều chỉnh liên quan đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân đều phải bằng luật. Cùng với đó, Hiến pháp mới đã có sự phân biệt giữa quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các quy định này phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước ta tham gia.
Liên quan đến bình đẳng giới, về quyền bình đẳng trước pháp luật, Điều 16, Hiến pháp mới quy định: mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quy định này đã cơ bản kế thừa Hiến pháp năm 1992, song đã được phát triển, toàn diện và chặt chẽ hơn. Trước đây, Hiến pháp năm 1992 quy định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trong Hiến pháp mới đã quy định đầy đủ và toàn diện hơn: mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Về bình đẳng giữa nam và nữ, Điều 26 Hiến pháp mới quy định: công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt; nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới. Có thể thấy, Hiến pháp mới đã quy định sự bình đẳng nam - nữ một cách toàn diện hơn, tổng quát hơn và tiến bộ hơn. Quy định nam - nữ bình đẳng về mọi mặt trong tất cả các lĩnh vực. Đây không chỉ là bình đẳng về quyền lợi mà còn là bình đẳng về trách nhiệm, nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực. So với Hiến pháp năm 1992, nội dung không phân biệt đối xử chuyển từ không phân biệt đối xử với phụ nữ đã mở rộng sang không phân biệt đối xử về giới. Các quy định này đã bảo đảm được các nguyên tắc của Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW).
Quy định của Hiến pháp mới về bình đẳng giới ngắn gọn, mang tính khái quát cao và không làm thay luật. Chính vì thế, yêu cầu đặt ra cho công tác thi hành Hiến pháp là phải thể chế hóa những điểm mới này vào các văn bản quy phạm pháp luật để thực thi. Tại Tọa đàm, nhiều chuyên gia cho rằng, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của QH cần phối hợp với bộ, ngành liên quan tiếp tục rà soát, lập danh mục các quy định cần bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung phù hợp với Hiến pháp mới; xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp mới liên quan đến bình đẳng giới, quyền con người trong Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Hộ tịch, Luật Bình đẳng giới...
Hiến pháp - đạo luật cơ bản, văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Hiến pháp xác định thể chế chính trị, định hướng và tạo lập cơ sở, nền tảng chính sách cho các đạo luật cụ thể. Trong giai đoạn phát triển mới, hội nhập quốc tế sâu rộng, việc ban hành Hiến pháp năm 2013 của nước ta là tất yếu và cần thiết. Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Trương Thị Mai lưu ý, yếu tố quyết định thành công trong tổ chức thực hiện Hiến pháp là phải cụ thể hóa hiệu quả các quy định mới, mang tính ưu việt của Hiến pháp vào các luật, pháp lệnh. Bên cạnh đó, những quy định của Hiến pháp mang tầm khái quát, định hướng, vì thế khi triển khai thi hành cần giải thích, phân tích, làm rõ các khái niệm một cách chi tiết, tránh hiểu nhầm, có thể dẫn đến tình trạng cụ thể hóa và thi hành sai.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp vào các luật, pháp lệnh thành công là chìa khóa để đưa Hiến pháp thực sự đi vào cuộc sống, là tiền đề và động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.