Công khai, minh bạch trong thực thi
Công khai, minh bạch hóa về các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) là một trong những nguyên tắc quan trọng để tham gia vào sân chơi quốc tế một cách bình đẳng và chủ động. Theo đó, vấn đề đặt ra là cần nâng cao năng lực thực thi các yêu cầu và hoàn thiện cơ chế minh bạch hóa đã cam kết. Đây là nhận định chung của các chuyên gia tại Hội thảo phổ biến đề tài nghiên cứu khoa học về TBT do Bộ Công thương tổ chức sáng 7.12.
![]() |
Yêu cầu minh bạch TBT ngày càng cao
Hiện nay, Việt Nam đã hoàn tất đàm phán một số Hiệp định tự do thương mại (FTA) như Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP); FTA Việt Nam - Liên minh châu ÂU (EU)… Theo nghiên cứu của Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương), các FTA này đều yêu cầu cam kết minh bạch hóa về quy định TBT cao hơn nhiều so với Hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) TBT và các FTA thế hệ trước. Điển hình là TPP và FTA Việt Nam - EU, theo đó đưa ra các cam kết cao đối với nghĩa vụ minh bạch hóa trong chương về TBT, tạo áp lực cho các nước đang phát triển trong việc thực thi các nghĩa vụ này. Và nước ta không phải là ngoại lệ. Bên cạnh yêu cầu thông báo các dự thảo quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp, các cam kết minh bạch hóa trong các FTA thế hệ mới còn yêu cầu thông báo các văn bản đã ban hành cùng các góp ý và xử lý ý kiến góp ý nhận được từ các nước thành viên khác…
Việc các FTA ngày càng yêu cầu cam kết minh bạch hóa cao về TBT cho thấy các cam kết của Hiệp định TBT của WTO chưa thể giải quyết hết các yêu cầu đối với việc công khai minh bạch thông tin về xây dựng, ban hành và áp dụng các biện pháp kỹ thuật như kỳ vọng của các nước. Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên Lương Hoàng Thái cho biết, trên thực tế, Hiệp định TBT của WTO chỉ yêu cầu thông báo các dự thảo quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp và không yêu cầu thông báo dự thảo tiêu chuẩn, trong khi các tiêu chuẩn sau khi ban hành sẽ trở thành cơ sở để xây dựng quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp. Việc theo dõi các văn bản quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp đã ban hành và có hiệu lực của các nước thành viên sau khi thông báo dự thảo cho WTO rất khó khăn cho các thành viên WTO khác, vì theo Hiệp định TBT việc thông báo các văn bản đã ban hành chỉ khuyến khích thực hiện. Do đó, các nước khi tham gia đàm phán Chương TBT trong các FTA đã đưa nội dung cam kết thông báo các văn bản đã ban hành và có hiệu lực của quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp trong điều khoản về minh bạch hóa.
Để triển khai các Hiệp định TBT của WTO, cơ sở pháp lý của nước ta đã được chỉnh lý, sửa đổi như ban hành Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, sửa đổi Pháp lệnh Đo lường thành Luật Đo lường… Tuy nhiên quá trình thực thi nghĩa vụ minh bạch hóa về TBT ở nước ta hiện vẫn gặp nhiều trở ngại, chủ yếu do sự điều phối trong nước nhằm xác định những biện pháp kỹ thuật dự thảo/dự định ban hành cần thiết phải thông báo cho WTO, do vậy vẫn có những biện pháp kỹ thuật bị bỏ sót và bị các nước thành viên nêu ra thành quan ngại thương mại khi chúng ta không thông báo cho WTO. Thực chất khi ký kết các FTA, các nước luôn cố gắng nỗ lực thỏa thuận xóa bỏ hàng rào thuế quan để đi đến tự do thương mại thực sự, thuận lợi trong trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước. Tuy nhiên nhiều nước, đặc biệt là các quốc gia phát triển luôn khéo léo trong việc sử dụng những quy định về TBT nhằm bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng trong trao đổi thương mại quốc tế, tạo hàng rào để bảo vệ sản xuất trong nước, bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp của nước bản địa, chống lại sự cạnh tranh của các hàng hóa nhập khẩu.
![]() Nguồn: tapchitaichinh.vn |
Doanh nghiệp thờ ơ...
Theo chuyên gia của Bộ Công thương, nếu những biện pháp TBT vẫn được thực hiện “ngầm”, các biện pháp giảm hay gỡ bỏ hàng rào thuế quan cũng không thực sự có ý nghĩa. Một mặt hàng cho dù được giảm thuế suất từ 15% xuống còn 0% nhưng nếu không bảo đảm các tiêu chuẩn kỹ thuật thì khi nhập khẩu hàng sẽ có khả năng bị các cơ quan tiêu chuẩn của nước bản địa trả về, thậm chí bị phạt tiền. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu của không chỉ doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế trong nước. Lý giải nguyên nhân giảm kim ngạch xuất khẩu nhiều khi chỉ chỉ ra nguyên nhân do giá nguyên liệu, nhân công... nhưng các biện pháp TBT thực chất mới là vấn đề lớn, bởi thời gian tới hầu hết thuế suất của các quốc gia sẽ giảm về 0% nên thuế quan sẽ không còn có ý nghĩa nhiều. Do vậy, những ngành như điện tử, máy móc, may mặc... tuy thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu về 0%, nhưng thực chất các nước tới đây sẽ chủ yếu đánh vào tiêu chuẩn kỹ thuật của các mặt hàng, nếu không đáp ứng được thì việc trả hàng là điều đương nhiên.
Thực tế là vậy, song, các doanh nghiệp trong nước thực sự còn quá thờ ơ, nhận thức không đầy đủ về với các biện pháp TBT do thông tin chưa được tuyên truyền rộng rãi và còn thiếu minh bạch. Thậm chí, nhiều nước còn khéo léo tránh sự không minh bạch bằng cách gây cản trở thông qua công bố các văn bản với ngôn ngữ không thông dụng. Do vậy doanh nghiệp Việt Nam khó khăn trong việc cập nhật thông tin về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm hàng hóa của nước đối tác. Trong khi đó, điều đáng nói là hoạt động của Mạng lưới TBT Việt Nam thực sự chưa hiệu quả, chưa có cơ sở pháp lý nào quy định cơ chế phối kết hợp giữa các Điểm TBT trong Mạng để hoạt động của Mạng lưới được nhanh chóng và thuận lợi hơn.
Động lực hoàn thiện hệ thống pháp lý về kỹ thuật
Bà Tôn Nữ Thục Uyên - Chuyên gia của Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, khuyến nghị, các doanh nghiệp cần quan tâm, tìm hiểu sâu hơn đến các biện pháp TBT. Đồng thời, các quy định về vấn đề này cần được minh bạch hóa ngay trong các FTA. Bởi minh bạch hóa trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp là một yếu tố quan trọng giúp giảm bớt các rào cản kỹ thuật và thuận lợi hóa thương mại. Mức độ minh bạch hóa càng cao càng tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp thực hiện thông suốt và hiệu quả. Các yêu cầu cao về minh bạch hóa trước mắt có thể tạo thuận lợi cho các nước phát triển, những nước vốn có hạ tầng pháp lý và kỹ thuật chắc chắn đủ điều kiện thực hiện các yêu cầu cao về minh bạch hóa.
Tuy nhiên, về lâu dài, các nước đang phát triển như nước ta cũng sẽ đạt được lợi ích thông qua việc nắm bắt chính sách kỹ thuật của các nước, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sớm tiếp cận thông tin khi xuất khẩu hàng hóa, sản phẩm. Đây cũng là động lực buộc các cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này khẩn trương rà soát và hoàn thiện hệ thống pháp lý kỹ thuật cũng như quy trình xây dựng, ban hành và áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp.
Bên cạnh đó, để nâng cao nghĩa vụ thực thi và nâng cao cơ chế minh bạch hóa TBT trong nước, các cơ quan quản lý Nhà nước cần xây dựng các đề án minh bạch hóa cho từng ngành hàng, thị trường trọng điểm của nước ta như da giày, dệt may… hoặc các thị trường xuất khẩu chủ đạo. Cần có những nghiên cứu nền tảng để làm căn cứ cho việc xây dựng định hướng nâng cao cơ chế công khai, minh bạch hóa TBT tập trung cụ thể theo từng mặt hàng hay từng quốc gia đối tác trọng điểm.
Ngoài ra, cần tổ chức cách thức, cơ chế hoạt động mới cho Mạng lưới TBT Việt Nam và có cơ chế quy định rõ vai trò, trách nhiệm, phương thức phối kết hợp của các Điểm TBT nhằm giúp cho hoạt động của Mạng lưới được nhanh gọn và dễ dàng hơn. Về cơ chế xử lý ý kiến góp ý của các nước thành viên đối với các thông báo của Việt Nam, cần có cơ chế phối kết hợp minh bạch rõ ràng hơn từ cơ quan xây dựng văn bản, đề cập rõ ràng đến việc xử lý, ghi nhận và phản ánh từng góp ý của nước bạn như thế nào trong văn bản cuối cùng của mình.
Đại diện của Công ty CP Bóng đèn phích nước Rạng Đông cho biết, doanh nghiệp rất khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về TBT ở trong nước. Khi xuất khẩu ra một thị trường nhất định thì chủ yếu khai thác thông tin về tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường đó thông qua đối tác nước ngoài đôi khi gặp khó khăn rào cản về ngôn ngữ, chi phí. Do vậy, đề nghị xây dựng cơ sở dữ liệu về TBT để giúp doanh nghiệp tiếp cận được với các cơ sở dữ liệu, tra cứu và khai thác thông tin một cách dễ dàng, thuận tiện hơn nhằm góp phần nâng cao năng lực và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của các thị trường, cải thiện khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu. |