Con nhà nòi sân khấu họ Lê
Kịch là thể loại sân khấu Tây, được “Việt hóa” từ đầu thế kỷ XX, ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, thông qua lòng yêu mến đầy tự tôn dân tộc của người Việt. Khởi đầu từ những trí thức “Tây học” chơi kịch, kịch đã thành thể loại dẫn đầu nền kịch Việt hiện đại. Theo huyết thống gia đình, kịch Việt đã hưng thịnh cho đến nay. Họ Lê của kịch sĩ Lê Đại Thanh là một trong những gia đình nghệ sĩ ấy…
![]() Lê Vân trong phim Bao giờ cho đến tháng mười |
Ông ngoại khởi đầu… nòi sân khấu
Sinh ra và lớn lên (1907 - 1996) trong bầu khí quyển giao lưu văn hóa Đông - Tây (Pháp - Việt) diễn ra sôi nổi, bồng bột trong các thành thị lớn ở Việt Nam, Lê Đại Thanh được Thế Lữ phát hiện tài năng kịch, đưa vào dải Ngân Hà nghệ sĩ chơi kịch “tài tử” lúc bấy giờ, đều là nghệ sĩ Hà Nội, Hải Phòng, được Thế Lữ mời vào ban kịch Thế Lữ, Anh Vũ, hoạt động kịch suốt những năm 30-40 của thế kỷ XX: Song Kim, Minh Trâm, Lan Bình, Kim Bình, Kỳ Ngung, Mai Lương, Huyền Kiêu, Trịnh Như Lương, Thanh Hương, Lưu Tâm, Lê Đại Thanh, Văn Chung, Phạm Hồng, Việt Hồng, Sỹ Tiến, Phạm Văn Đôn, Phạm Văn Khoa, Tú Mỡ, Nguyễn Tuân, Bùi Công Kỳ, Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ… Riêng Lê Đại Thanh được Thế Lữ ấn tượng là người “mê làm thơ, nhưng rất sân khấu từ dáng dấp đến cử chỉ, sắm vai kịch hồn nhiên không bợn chút nhọc lòng, diễn kịch với khí chất biển của người trai đất cảng Hải Phòng”. Ông thủ vai Trần Thiết Chung xuất sắc trong vở Kim Tiền, từng được giải thưởng báo Ngày Nay của Tự Lực Văn đoàn, kịch bản Hai người trọ học, cùng Kim Tiền của Vi Huyền Đắc và Bỉ vỏ của Nguyên Hồng năm 1936. Ông từng lập đoàn kịch Lê Đại Thanh - Lan Sơn và Gió Biển. Ông cưới bà Đinh Ngọc Anh, con gái một thế gia vọng tộc người Hải Phòng, thời xuân sắc từng là kịch sĩ đoàn kịch Gió Biển, từng vào vai bà mẹ, vở Bức ảnh của Nguyễn Văn Niêm. Năm 1956, bà là người đầu tiên đóng vai người con gái đất đỏ Võ Thị Sáu.
Hai ông bà sinh ra hai thế hệ nghệ sĩ hành nghề sân khấu, với cảm xúc mạnh như làm thơ và làm thơ như kịch phải chừa ra khoảng lặng đầy lời. (Sau này, Lê Khanh chọn đề tài thạc sĩ sân khấu học cho mình: Về cách xử lý khoảng lặng trên sân khấu của diễn viên kịch hiện đại VN). Chính ông bà đã để con cháu tự hình thành tính cách sân khấu, chứa đầy nội lực của bản năng nghệ sĩ…
|
Nội lực “cha truyền con nối”
Lê Mai, Lê Đại Chúc và Lê Chức là ba tia pháo hoa bùng nổ ở thế hệ nghệ sĩ con, sau điểm nổ của người cha. Có điều đặc biệt, người cha di truyền cho họ chất nghệ sĩ phong nhiêu và di truyền luôn cả bi kịch đời nghệ sĩ của mình. Một thời dài, cha họ bị liên đới vụ Nhân văn Giai phẩm (1957) cùng một số văn nghệ sĩ đương thời. Cha bị thôi việc tại một cơ quan báo chí, tác phẩm không được xuất bản trong thời gian dài. Con gái Lê Mai bị đình chỉ diễn ở Đoàn kịch nói Trung ương. Gần qua đời, ông mới được muộn màng minh oan.
Gần đây nhất, theo quyết định của HĐND thành phố Hải Phòng, báo Hải Phòng đưa tin 10.8.2012, sẽ có đường phố Lê Đại Thanh được đặt tại phường Lâm Hà, quận Kiến An thuộc thành phố Biển mà cả đời ông gắn bó.
Các con trai ông rất vất vả trong lập nghiệp, nhất là Lê Chức, theo nghề sân khấu của cha, tuổi Đinh Hợi 1947. Phải 22 năm sau sự cố, 1979, Lê Chức mới được đi học ở Kiev, Liên Xô, ngành đạo diễn kịch, do nỗ lực cá nhân phi thường. Lê Chức từng cùng đại gia đình vượt qua cảnh túng đói (cha ông đói triền miên, và cố giấu sự thiếu đói trước mặt con). Người anh Lê Đại Chúc phải bốc vác ở cảng Hải Phòng ròng rã hai năm. Lê Chức đẩy xe bò, làm công nhân sửa đường hơn một năm, rồi thi đỗ vào Đoàn kịch Hải Phòng.
Song, người tiếp lửa cho những đứa con nghệ sĩ vượt qua cơn nguy biến, theo hồi tưởng Lê Chức, lại chính là người cha. Lê Đại Thanh đã viết Di chúc thơ năm 1965 như rút ruột để lại cho con cái, cho người đời mà chưa bao giờ ông hết thương yêu: Nếu tôi chết hỡi những người thân đừng nhỏ lệ/ Hãy ngâm với tôi một khúc ngắn thơ tôi/ Chết là trở về với tinh thể sao trời, trả trái đất những gì vay mượn trước/ Chào những bộ hành tuổi xanh xuôi ngược/ Tôi xuống ga đời trả lại vé cho quê hương… (Khổ thơ đầu Di chúc). Chính ông thương con trai lận đận mà bảo con bỏ bớt chữ Đại trong tên ông đặt, chỉ còn là Lê Chức “cho con nhẹ hơn trong đời”. Mười năm cha mất, Lê Chức xuất bản tập thơ Lê Hoa, rưng rưng ghi tên ba cha con, trở về chữ “Đại” trong tên mình, để ghi ơn sinh thành dưỡng dục từ cha mẹ: Lê Đại Thanh - Lê Đại Chúc - Lê Đại Chức. Không chỉ trả “châu về hợp phố” bằng cái tên đầy đủ, Lê Chức đã thành Nghệ sĩ ưu tú, đạo diễn, thi sĩ (xuất bản không chỉ một tập thơ) và hiện đang rất “đắt sô” đạo diễn, giảng dạy, viết kịch, làm thơ, đọc lời bình phim… dù ông đương chức Phó chủ tịch thường trực Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Và hình như, Lê Chức là tia pháo hoa rực rỡ nhất phẩm chất di truyền kịch sĩ và thi sĩ của người cha Lê Đại Thanh.
Lê Đại Chúc, thứ năm, sinh năm 1944, là tia pháo hoa lộng lẫy khác, dù bùng nổ muộn. Là chuyên viên ngành hàng hải, đến tuổi ngũ tuần, theo ông tự sự, Thượng Đế bất ngờ ra lệnh Lê Đại Chúc bỏ nghề tàu biển làm họa sĩ. Như có phép lạ, Lê Đại Chúc vẽ như… lên đồng và lên hương đã hai thập niên cuối thế kỷ XX, đầu XXI. Ông vẽ như thể đi chơi trăng, nhẹ nhõm, bay bổng. Ông mê vẽ chân dung, hoa và phong cảnh. Ông hoan hỉ thú nhận có năm ông bán tranh tiền tỷ. Chân dung danh họa Nguyễn Gia Trí, vẽ chưa đầy một giờ, được mua 10.000 USD. Trong hai chục năm, ông vẽ hàng nghìn tranh sơn dầu, hàng trăm chân dung người ruột thịt, bạn bè. Thật thú vị khi ông nhận ra mình in bóng người cha Lê Đại Thanh. Nhà báo hỏi ông có chịu ảnh hưởng từ cha? Ông tự hào: “Sao lại không? Gien di truyền đấy, không lẫn được đâu. Mấy cô cháu tôi: Vân, Khanh, Vi thường nói: “Bây giờ nhìn cậu là ra ngay ông ngoại”. Tôi càng ngày càng cảm thấy, cách nói năng, đi đứng, suy nghĩ, việc làm của mình mỗi lúc một giống cha hơn”…
|
Ba nhan sắc nhà nòi: Lê Vân, Lê Khanh, Lê Vi
Có lẽ công lớn nhất dâng đời của vợ chồng nghệ sĩ Lê Mai và NSND Trần Tiến là đã sinh hạ được ba nhan sắc cho nghệ thuật biểu diễn Việt: Lê Vân, nghệ sĩ múa và màn bạc, sinh 1958. Lê Khanh của kịch lẫn màn bạc, sinh 1963. Lê Vi, nghệ sĩ múa và màn bạc, sinh 1967. Cặp vợ chồng này cùng có công thăng hoa chùm tia đẹp bất ngờ nhất từ điểm nổ pháo hoa của ông ngoại Lê Đại Thanh.
Song, Lê Mai mới thực là người mẹ tài năng. Tính cách quả cảm của bà trong nuôi dạy con mới thực là cội nguồn của ba cô con gái nghệ sĩ. Trong kháng chiến chống Mỹ, cha các cô, Trần Tiến, ông vua hài kịch thường vắng nhà đi diễn xa, một mình mẹ Lê Mai cáng đáng cả ba con nhỏ. Bị thôi việc ở Đoàn kịch Trung ương, bà may mắn được nhận về Đoàn kịch Hà Nội. Khi Lê Vân còn nhỏ, bà gửi con ở nhà trẻ nơi sơ tán của Bộ Văn hóa. Cứ tối thứ bảy, sau diễn kịch, bà lại đạp xe gần ba mươi cây số đón con và ba giờ sáng thứ hai lại đạp xe về Hà Nội cho đúng giờ ở đoàn kịch. Rồi Lê Khanh ra đời, cân nặng 1,8kg, bà lại khốn khổ vì con hay đau ốm, đi diễn một đêm chỉ đủ tiền mua vài viên thuốc cho con một ngày. Bà kể có người dại miệng bảo con bé thế thì chỉ có nước “cho vào bánh quy mà đem chôn”. Thế mà bà nuôi mát tay, Khanh lớn phổng lên và rất thông minh. Con út Lê Vi ra đời, bà lại lo cho Vi, vừa lo tiếp tế cho Vân và Khanh theo bố sơ tán. Vi là con gái thứ ba, dù bà hy vọng con trai. Bố Trần Tiến hơi buồn, nhưng cả hai vợ chồng nghĩ, con là lộc trời, nên thương Vi nhất và Vi bện mẹ nhất. Đi học cũng chỉ chực về với mẹ, lấy chồng cũng ở cùng mẹ, sang Pháp sống với chồng con nhưng quả quyết “con vẫn sẽ về với mẹ”. Khi các con còn nhỏ xíu, vợ chồng bà chỉ nhắc khéo: nhà mình có bố Tiến, mẹ Mai đều làm nghệ thuật, các con mà không biết đóng kịch, đóng phim thì phí quá. Có lẽ do gien nghệ thuật từ ông ngoại Lê Đại Thanh, đến mẹ Lê Mai, rồi từ cha Trần Tiến đã lặn sâu vào các con, mà Vân, Vi, mười một tuổi đã theo học trường múa, Khanh mười lăm tuổi đã được tuyển vào Nhà hát Tuổi Trẻ, rồi cả ba tự đi trên đường đã chọn, bố mẹ không cần tác động, cứ “hữu xạ tự nhiên hương”. Bản tính Lê Mai không thích phô trương, chưa một lần trong đời bà mang hoa lên sân khấu tặng con, dù bà không bỏ buổi diễn nào của các con.
Bà tự cho mình là người mẹ hạnh phúc nhất thế gian, bởi có ba cô con gái nghệ sĩ, lại biết lo lắng cho mẹ. Bà bảo số bà được nhờ con, con giỏi hơn mẹ nhưng vẫn giống bố mẹ ở tính giản dị, yêu lao động nghệ thuật. Hôm nhận danh hiệu NSND, Khanh nói lời cảm ơn mẹ Lê Mai, vì “mẹ là người chèo lái con thuyền chở toàn nghệ sĩ đến bến bờ vinh quang”. Lê Mai đã không cầm được nước mắt.
Duy cuốn tự truyện Lê Vân yêu và sống đã khiến bà và gia đình phải ít nhiều nghĩ ngợi, khi NSƯT Lê Vân lục tung quá khứ của chính mình và cha mẹ, em gái, để giải đáp câu hỏi của đời mình, trong tình yêu và nghệ thuật, để cuối cùng là… sám hối. Bà Lê Mai không nỡ giận, chỉ xót thương, thấy Vân giống mẹ, mạnh mẽ, cứng cỏi, dám sống theo cách riêng. Mặc lòng, dù tự truyện Lê Vân đã khuấy động quá khứ và hiện tại của một gia đình danh giá nghệ sĩ, phơi bày vài sự thật đắng lòng thì bà Lê Mai vẫn tỉnh táo và công bằng khi đánh giá: thông điệp của cuốn tự truyện là không người nào, gia đình nào hoàn hảo. Lê Vân đã đau đáu về điều không hoàn hảo ấy, chứng tỏ Vân có tấm lòng thành thực đáng quý.
Bây giờ, đã tuổi thất thập, song bà Lê Mai vẫn đang mơ đến thế hệ thứ tư: bảy cháu ngoại do ba cô con gái sinh ra. Biết đâu, chúng sẽ tự nhiên thành nghệ sĩ, như cụ ngoại, ông bà, chú bác, cha mẹ chúng đã là con nhà nòi ba đời, đến đời thứ tư thành nghệ sĩ sân khấu, điện ảnh, tại sao không? Như nhiều gia đình nghệ sĩ hai, ba đời bà từng quen biết ở Hà Nội, Hải Phòng: gia đình NSND Thế Lữ - Nguyễn Đình Nghi, NSND Sỹ Tiến, NSND Phạm Thị Thành - NSND Đào Mộng Long, gia đình nghệ sỹ Ái Liên, Ái Vân, NSND Như Quỳnh, NSND Trần Bảng - Trần Lực, gia đình nhà viết kịch Bửu Tiến, gia đình NSƯT Ngọc Hiền, NSND Dương Viết Bát, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh… trong gần một thế kỷ sân khấu Việt hiện đại đấy thôi. Như các dòng sông, bao giờ mà chẳng mải mê thao thiết chảy xuôi ra biển lớn?...