Con đường trường tồn và phồn vinh
TS. Đoàn Duy Khương - Nguyên Chủ tịch Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8.8.1967 tại Bangkok, Thái Lan. Từ 5 thành viên ban đầu, đến nay, ASEAN đã phát triển thành cộng đồng 10 quốc gia thành viên, lấy việc duy trì ổn định an ninh chính trị làm nền tảng thúc đẩy thịnh vượng kinh tế và tiến bộ xã hội trong khu vực.
Ba xu hướng của ASEAN
Trải qua gần 60 năm phát triển, khu vực đã hình thành một cộng đồng kinh tế ASEAN năng động với 700 triệu dân trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu với ba xu hướng cơ bản.

Thứ nhất, mặc dù áp lực kinh tế toàn cầu gia tăng, ASEAN vẫn có nền kinh tế phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 5 - 6%. Trong hơn thập kỷ qua, thương mại nội khối đạt khoảng 750 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng thương mại của khu vực. Với tổng kim ngạch thương mại hơn 3.000 tỷ USD, ASEAN đã trở thành khu vực thương mại lớn thứ tư trên thế giới, chỉ sau EU, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Tổng dòng vốn FDI vào ASEAN đã tăng từ 108 tỷ USD năm 2010 lên gần 200 tỷ USD, đưa ASEAN trở thành khu vực nhận FDI lớn thứ ba thế giới, sau Mỹ và Trung Quốc.
Thứ hai, vị trí địa chính trị của biển Đông ngày càng quan trọng trong bối cảnh chuyển dịch của chuỗi cung ứng toàn cầu đã khẳng định vị trí trung tâm của ASEAN (hình 1) trong liên kết kinh tế khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực - RCEP và Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ - Thái Bình Dương - IPEF). Hiện nay, ASEAN trong liên kết khu vực đã quản lý một cách chủ động và hiệu quả những thách thức chung như khủng hoảng kinh tế, biến đổi khí hậu, xung đột, dịch bệnh và thảm họa thiên nhiên…
Thứ ba, hai xu hướng mới nổi trong khu vực sẽ định hình tương lai của các nỗ lực hội nhập và xây dựng cộng đồng ASEAN. Đó là chuyển đổi kỹ thuật số (nền kinh tế kỹ thuật số của ASEAN dự kiến sẽ đạt 1.000 tỷ USD vào năm 2030) và nhu cầu cấp bách về tính bền vững (môi trường sinh học và chênh lệch phát triển đang gia tăng giữa các quốc gia). Cả hai đều nằm trong chương trình nghị sự hội nhập kinh tế ASEAN. Cách tiếp cận toàn thể Cộng đồng là cần thiết do tính chất liên trụ cột của những vấn đề quan trọng này.
Hướng đến một quốc gia trường tồn và phồn vinh
Việt Nam hiện là thành viên tích cực của ASEAN; ASEAN cũng là đối tác thương mại lớn của Việt Nam, sau các thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc. Những năm gần đây, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ các mặt hàng nông sản, thủy sản và khoáng sản sang các mặt hàng công nghiệp chế biến và công nghệ cao… Với chủ trương đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định: chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên Hợp Quốc…
Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, lợi thế về nguồn lao động dồi dào, nhân công giá rẻ dần mất ưu thế. Thay vào đó, nguồn lực mới cho tăng trưởng là năng suất và chất lượng lao động, năng lực sáng tạo và tiềm lực khoa học - công nghệ. Việt Nam, mặc dù tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011 - 2020 đạt trung bình 5,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philippines, Indonesia và Hàn Quốc, nhưng năng suất lao động vẫn còn thấp, năm 2022 chỉ bằng 12,2% của Singapore, 63,9% của Thái Lan, 94,2% của Philippines, 24,4% của Hàn Quốc, 58,9% của Trung Quốc. Đây có lẽ là một trong những thách thức lớn nhất ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững và trường tồn của Việt Nam.
Theo các nhà chiến lược kinh tế, nâng cao năng suất lao động và có lợi thế cạnh tranh quốc gia sẽ đem lại sự thịnh vượng bền vững. Chỉ cần một vài phần trăm tăng năng suất cũng có thể tạo ra sự khác biệt lớn về mức độ giàu có và mức sống của một quốc gia. Lịch sử ở nước ta những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước cho thấy kinh nghiệm thành công của cơ chế khoán sản phẩm đã đem lại năng suất cao trong ngành sản xuất nông nghiệp, tạo được đột phá lan tỏa sang các ngành khác, hướng tới nền kinh tế thị trường.
Để thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Nhà nước trong các xu hướng tích cực của khu vực ASEAN hướng đến một quốc gia trường tồn và phồn vinh, nên chăng cần nghiên cứu và triển khai bốn nội dung quan trọng.
Thứ nhất, tầm nhìn hội nhập: Ưu tiên phát triển hữu nghị và hợp tác kinh tế với các nước láng giềng ở Đông Bắc Á và ASEAN. Xác định rõ đây là nền tảng trong chính sách hội nhập bền vững của đất nước và là cơ sở để phát triển mạnh mẽ toàn diện các chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế song phương và đa phương của đất nước. Trong quá trình đó, cần chủ động phối hợp với các nước ASEAN xây dựng và hoàn thiện các thể chế hợp tác tích cực (luật pháp, quy tắc ứng xử COC…) với các đối tác chiến lược mở rộng của ASEAN như ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Hoa Kỳ… cũng như các chương trình sáng kiến hợp tác khu vực như RCEP, IPEF… bảo đảm các nguyên tắc công khai, bình đẳng và “win-win” cho các bên tham gia.

Thứ hai, tạo môi trường kinh doanh quốc gia lành mạnh: Chính phủ có vai trò quan trọng trong phát triển môi trường kinh doanh quốc gia lành mạnh, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới nghiên cứu và phát triển để vừa đạt được lợi thế cạnh tranh vừa nâng cấp lợi thế. Cần xác định vị trí của quốc gia trong các yếu tố sản xuất, chẳng hạn như lao động lành nghề hoặc cơ sở hạ tầng, cần thiết để cạnh tranh trong một ngành nhất định. Qua đó xác định các ngành công nghiệp có khả năng đột phá và lan tỏa trong nền kinh tế thị trường Việt Nam như: nông nghiệp, logistics, năng lượng, kinh tế biển và công nghệ cao…
Ngoài ra, cần nhận thức rằng các chính sách tài khóa và tiền tệ của Chính phủ và được các doanh nghiệp thân hữu cổ súy để xây dựng môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh quốc gia thường chỉ dẫn đến việc khai thác nó và phục vụ cho các nhóm lợi ích. Sự thịnh vượng của quốc gia không phát triển từ các nguồn lực tự nhiên, lực lượng lao động, lãi suất hay giá trị đồng tiền… mà nó dựa trên khả năng cạnh tranh của một quốc gia trong việc nâng cao năng suất lao động. Về dài hạn, điều đó chủ yếu phụ thuộc vào khả năng đổi mới và nâng cấp của các ngành công nghiệp cốt lõi dựa vào động lực của thị trường.
Thứ ba, thúc đẩy cạnh tranh trong doanh nghiệp: Cạnh tranh góp phần vào sự vận hành tốt của thị trường. Doanh nghiệp được khuyến khích và có động lực trở nên hiệu quả hơn, nhờ đó, người tiêu dùng được hưởng mức giá cạnh tranh, nhiều lựa chọn hơn và các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao hơn. Về dài hạn, cạnh tranh dẫn đến tăng năng suất, bảo đảm nền kinh tế duy trì tính cạnh tranh và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững.
Khi đạt được lợi thế cạnh tranh thông qua đổi mới, doanh nghiệp cần duy trì lợi thế đó thông qua cải tiến không ngừng và xây dựng năng lực cốt lõi vì hầu như bất kỳ lợi thế nào cũng có thể bị đối thủ bắt chước. Về chiến lược, doanh nghiệp cần xây dựng vững chắc thị phần bản địa và từng bước phát triển ra khu vực và quốc tế theo chương trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Thứ tư, xây dựng văn hóa hỗ trợ và thúc đẩy đổi mới, sáng tạo: Văn hóa làm việc đoàn kết và hợp tác bình đẳng tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hình thành văn hóa đổi mới. Việc luôn đổi mới, sáng tạo trong học tập và lao động sẽ cho phép các tổ chức gặt hái thành công trong khi vẫn học hỏi từ những thất bại của họ.
Xây dựng văn hóa sáng tạo và đổi mới là một quá trình, cần có thời gian, sự kiên nhẫn và nguồn lực đáng kể, đặc biệt khi đứng trước sự thất bại hoặc thậm chí là thái độ “thù địch” của xã hội.
Xác định và triển khai tốt các nội dung trên, chắc chắn Việt Nam cũng sẽ góp phần phát triển tích cực cộng đồng ASEAN đang hướng tới tầm nhìn sau năm 2025 và đóng góp hiệu quả vào sự thịnh vượng, tiến bộ xã hội cho khu vực và thế giới.