Cơ sở để đáp ứng ý chí và nguyện vọng của nhân dân
Nhiệm kỳ kéo dài (2004 - 2011) của HĐND sắp kết thúc. Với những kết quả đạt được trong quá trình hoạt động, HĐND đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển KT – XH và ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của mình trong hệ thống chính trị.
Thời gian qua, pháp luật đã tạo cơ sở, động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của cơ quan dân cử ở địa phương. Pháp luật đã trao cho HĐND nhiều thẩm quyền và nhiệm vụ cụ thể. Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã tăng thêm một chương và bảy mươi bảy điều; Luật đã quy định rõ hơn, đầy đủ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp; xác định cụ thể Thường trực HĐND ở ba cấp và các ban của HĐND có Trưởng ban hoặc Phó ban hoạt động chuyên trách… Khi có bộ máy hợp lý, Thường trực HĐND hoạt động hiệu quả hơn: tăng cường giám sát giữa hai kỳ họp, làm tốt công tác tiếp dân; có điều kiện tham dự nhiều hội nghị, hội thảo nên kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động dân cử được bổ sung rất phong phú.
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 được bổ sung một chương về: “Hoạt động giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, các ban của HĐND và đại biểu HĐND”. Thường trực và các ban của HĐND chủ động hơn trong việc xây dựng kế hoạch giám sát, chủ động thành lập các đoàn giám sát theo chuyên đề, xem xét sâu từng lĩnh vực bức xúc, gay cấn ở địa phương; cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát cũng có thời gian để chuẩn bị đầy đủ báo cáo. Nhờ cơ sở pháp lý ngày càng hoàn thiện nên hoạt động giám sát của HĐND trong những năm qua được tăng cường, chất lượng các cuộc giám sát được nâng lên rõ rệt, góp phần quan trọng đưa nghị quyết của HĐND vào cuộc sống. Hiệu quả giám sát ngày càng thực chất hơn.
Bên cạnh Luật Tổ chức HĐND và UBND được sửa đổi theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho HĐND hoạt động, một số đạo luật khác cũng có tác dụng tích cực, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của HĐND. Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi năm 2002, đã tăng cường phân cấp và tạo chủ động cho địa phương, thông qua quy định giao cho HĐND thẩm quyền quyết định nhiều nội dung cụ thể hơn, chi tiết hơn trong việc thu chi, phân bổ ngân sách nhà nước ở địa phương. Luật cũng khẳng định HĐND có thẩm quyền quy định, điều chỉnh, bãi bỏ nhiều loại phí và lệ phí, tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở tăng được nguồn thu, bảo đảm những chi tiêu thiết yếu. Luật Ngân sách nhà nước còn quy định thời gian cụ thể bắt buộc HĐND từng cấp phải thông qua dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách cho cấp dưới. Đây là điều kiện thuận lợi để HĐND tổ chức được kỳ họp cuối năm sớm hơn trước đây, nhờ đó ở cơ sở cũng chủ động tổ chức kỳ họp, sau khi HĐND cấp trên bế mạc. Luật Đất đai và Luật Khoáng sản cũng giao thẩm quyền cho HĐND lập quy hoạch, quản lý đất đai và một số khoáng sản trên địa bàn. HĐND quyết định kế hoạch sử dụng đất đai, thăm dò khai thác một số khoáng sản, tạo chủ động cho địa phương sử dụng nguồn tài nguyên sẵn có vào quá trình phát triển KT - XH.
Gần đây, các pháp lệnh của UBTVQH, nghị định của Chính phủ cũng mở ra cho HĐND nhiều nhiệm vụ và quyền hạn. Bởi vậy, trách nhiệm của HĐND ngày càng lớn, nặng nề hơn. Tại các kỳ họp, số báo cáo HĐND phải xem xét, nội dung HĐND cần phải giám sát nhiều gấp đôi trước đây. HĐND phải nghiên cứu, thảo luận và thông qua số lượång nghị quyết nhiều gấp ba lần những nhiệm kỳ trước đây. Nhiều địa phương không thể ban hành hết số nghị quyết cần thiết tại các kỳ họp thường lệ, phải tổ chức các kỳ họp chuyên đề để tiếp tục ban hành nghị quyết, nhất là các nghị quyết chuyên đề, để giảm áp lực cho các kỳ họp thường lệ và kịp thời đáp ứng những yêu cầu phát sinh trong xã hội. Cách làm này cũng nâng cao chất lượng, hiệu lực các nghị quyết của HĐND.
Sau khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND có hiệu lực, quy trình ban hành nghị quyết của HĐND cũng có những thay đổi căn bản. Trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành nghị quyết của HĐND được quy định rất rõ, là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan soạn thảo chuẩn bị đầy đủ, chu đáo; ngành Tư pháp có cơ sở để thẩm định; các ban HĐND làm tốt công tác thẩm tra và Thường trực HĐND có điều kiện sớm tiếp cận các tờ trình dự thảo nghị quyết UBND chuẩn bị trình.. Hơn nữa, do quy định chặt chẽ thời gian gửi các tờ trình và dự thảo nghị quyết, nên báo cáo thẩm tra của các ban HĐND có chất lượng cao, mang tính phản biện và có chính kiến rõ ràng, giúp các đại biểu HĐND nghiên cứu, tranh thủ sự đề xuất, kiến nghị của cử tri, tham vấn được ý kiến của nhân dân… làm cơ sở thảo luận và quyết định những vấn đề đặt ra ở địa phương.
Cùng với kinh nghiệm được tích lũy, độ dày thời gian của nhiệm kỳ và cơ sở pháp lý từ các đạo luật, đại biểu HĐND đã chủ động hơn trong các phiên thảo luận; đánh giá nhiều vấn đề sắc sảo, buộc các cơ quan chuyên môn trao đổi, giải trình làm rõ những vấn đề chưa thống nhất. Các phiên họp thông qua nghị quyết không còn rập khuôn, tẻ nhạt mà thực sự sôi động. Đại biểu HĐND đã tách mình khỏi lợi ích cục bộ, địa phương, ngành và đơn vị để có những ý kiến khách quan, toàn diện và chuyên sâu, buộc cơ quan trình dự thảo nghị quyết phải tiếp thu, giải trình và hoàn thiện trước khi HĐND thông qua.
Nhìn lại chặng đường hoạt động của HĐND có thể thấy những tiến bộ vượt bậc. HĐND trưởng thành và lớn mạnh một phần nhờ hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện hơn. Nhưng thực tiễn vẫn đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các đạo luật để đáp ứng quá trình phát triển. Trước mắt, cần quy định cụ thể hơn tiêu chuẩn người đại biểu nhân dân: không những có chuyên môn nghiệp vụ, đại biểu phải hiểu nhiều, biết rộng, gần gũi gắn bó với nhân dân. Đặc biệt, cơ quan dân cử rất cần những người có kỹ năng hoạt động nghị trường, cần đại biểu chuyên trách, các nhà khoa học… Cần bổ sung chức năng giám sát của HĐND; quy định cụ thể hơn việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do HĐND bầu… Việc quy định cơ cấu tổ chức của HĐND phù hợp hơn, chính là điều kiện bảo đảm để HĐND hoạt động thực sự hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.