Cổ phần hóa DNNN chậm: Đâu là nguyên nhân?
Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) 6 tháng đầu năm gần như bị đình trệ. Đâu là nguyên nhân và đâu là giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa mà không ảnh hưởng đến sự hồi phục của TTCK trong nước, cũng như giảm nguồn thu từ việc bán phần vốn Nhà nước...? là câu hỏi khá hóc búa.
Nguyên nhân được lý giải là do thị trường chứng khoán sụt giảm, nguồn cung hàng hoá từ việc phát hành cổ phiếu ra công chúng giảm. Thêm vào đó, tình hình kinh tế khó khăn cũng khiến tốc độ cổ phần hóa bị đình trệ.
Nhiều ý kiến cho rằng, nếu các DNNN tiếp tục phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO) một cách ồ ạt chẳng những ảnh hưởng đến sự ổn định của TTCK mà còn làm thất thu rất lớn cho ngân sách Nhà nước từ việc bán tài sản. Tuy nhiên, cũng không thể vì thế mà trì hoãn tiến trình cổ phần hóa. Sự chậm trễ trong việc cổ phần hoá DNNN, nhất là với đối tượng tổng công ty nhà nước có quy mô vốn lớn sẽ gây ra những tác động tiêu cực, như: tiếp tục kéo dài cơ chế quan liêu bao cấp, cơ chế xin cho, cơ chế can thiệp hành chính từ cơ quan chủ quản, sử dụng vốn Nhà nước không đạt được hiệu quả cao, thậm chí làm thất thoát vốn... Thêm vào đó sẽ không tạo được cơ chế sử dụng và thu hút người tài, không giải quyết được cơ bản cơ chế tiền lương, tiền thưởng nhà nước theo cơ chế thị trường. Những điều này sẽ khiến các DNNN mất dần thương hiệu, các giá trị vô hình, đặc biệt là khi nhân lực chủ chốt trong doanh nghiệp chuyển dịch sang khu vực tư nhân.
Bên cạnh đó, đại bộ phận các DNNN hiện nay chưa có cơ chế bắt buộc trong công khai, minh bạch tài chính như các công ty đại chúng. Vì vậy, dễ dẫn đến tình trạng tiêu cực, tham nhũng; Tiến trình cổ phần hóa càng chậm trễ bao nhiêu thì DNNN càng mất khả năng cạnh tranh bấy nhiêu và đến khi chính thức cổ phần hóa thì giá trị doanh nghiệp sẽ bị giảm đi rất nhiều, điều đó đồng nghĩa với việc tài sản nhà nước bị thất thoát.
Theo Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp có cổ phần của nhà nước chiếm đa số vốn điều lệ thì tình hình vẫn khả dĩ hơn so với những doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước. Vì khi đó, doanh nghiệp đã trở thành một công ty cổ phần có nhiều cổ đông tham gia. Sau khi đã trở thành công ty đại chúng, những doanh nghiệp này phải thường xuyên công bố thông tin, như vậy, tính minh bạch trong quản trị doanh nghiệp được cải thiện; Tạo được cơ chế trả lương và thu nhập theo cơ chế thị trường mà không bị ràng buộc theo cơ chế bảng lương được ấn định từ cơ chế nhà nước. Lúc này, lãnh đạo doanh nghiệp cũng chịu sức ép lớn hơn trước rất nhiều vì phải bảo đảm lợi nhuận cho doanh nghiệp để trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông theo mặt bằng chung của thị trường. Tuy nhiên, thực tế, hầu hết các tổng công ty nhà nước đều không chú trọng đến việc phải đạt được một tỷ suất lợi nhuận bình quân nhất định như các DNNN đã cổ phần hóa. Do đó, việc cổ phần hóa các DNNN sẽ giúp cơ quan chủ quản có điều kiện cải tổ, nâng cao hiệu quả hoạt động; Mở rộng các hình thức huy động vốn mới như phát hành cổ phiếu, trả cổ tức bằng cổ phiếu. Tổng kết sau 15 năm thực hiện cổ phần hóa, đa phần các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Chính sách cổ phần hóa các DNNN hiện hành đưa ra nhiều mục tiêu như: thay đổi cơ chế quản lý, huy động vốn; Tìm kiếm đối tác chiến lược; Tạo hàng hoá cho TTCK. Các chuyên gia đánh giá đây là những mục tiêu đúng đắn, nhưng trong bối cảnh của TTCK hiện nay, không thể đạt được tất cả các mục tiêu cùng lúc. Nên chăng ưu tiên hoàn thành thủ tục chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó, nhà nước tạm thời nắm cổ phần đa sô,ë như vậy, vừa đẩy nhanh được tiến trình cổ phần hoá DNNN, vừa không ảnh hưởng đến sự ổn định của TTCK, những mục tiêu quan trọng khác cũng sẽ được giải quyết nhanh hơn.