Có một con đường như thế (*)

01/05/2022 06:13

Nói đến hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, sách, báo, phim, ảnh đã miêu tả, khắc họa sâu đậm về con đường Hồ Chí Minh trên bộ, con đường Hồ Chí Minh trên biển. Con đường xăng, dầu và con đường hàng không cũng đã được đề cập đến. Nhưng còn có một con đường nữa, đó là con đường chuyển ngân - con đường vận chuyển tiền bạc - đã hoàn thành sứ mệnh vô cùng cao cả, vẻ vang cùng làm nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn - chiến trường miền Nam.

                                                   TS. Bùi Ngọc Thanh
Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội

Quỹ ngoại tệ đặc biệt - B.29

Quỹ ngoại tệ đặc biệt có danh nghĩa là Cục Ngoại hối của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam để khi cần thiết có thể làm các thủ tục hợp pháp. Về hình thức, nó hoạt động công khai chính diện. Về điều hành, Cục không phải là một đơn vị trong Ngân hàng Quốc gia. Để bảo đảm tuyệt đối bí mật và an toàn, Quỹ này chịu sự chỉ đạo đơn tuyến. Nét độc đáo trong cách tổ chức này là lấy công khai làm bình phong cho bí mật; mọi hoạt động của bí mật đều lấy danh nghĩa của công khai. Như vậy, trên thực tế B.29 tồn tại và hoạt động như một “Ngân hàng Ngoại hối đặc biệt”, phục vụ riêng cho việc chi viện cho chiến trường bằng ngoại tệ.

Trong suốt gần 20 năm kháng chiến, hàng trăm triệu đô la chi viện miền Nam đã được vận chuyển qua con đường Trường Sơn (ảnh tư liệu của Đoàn 559 - Bộ Tư lệnh Trường Sơn)
Trong suốt gần 20 năm kháng chiến, hàng trăm triệu đô la chi viện miền Nam đã được vận chuyển qua con đường Trường Sơn (ảnh tư liệu của Đoàn 559 - Bộ Tư lệnh Trường Sơn)

Tài sản ngoại tệ thuộc Quỹ ngoại hối đặc biệt dành riêng cho miền Nam nên được điều hành hoàn toàn độc lập, không liên quan gì đến vốn ngoại tệ công khai của Nhà nước tại miền Bắc. Vốn ngoại tệ đặc biệt B.29 được gửi tại Vietcombank. Đến lượt mình, Vietcombank lại gửi vốn đó ở nước ngoài, tại các ngân hàng đại lý quốc tế lớn đáng tin cậy. Như vậy, B.29 được coi như “khách hàng gửi tiền đặc biệt” và “ngân hàng đại lý đặc biệt” trong quan hệ với Vietcombank. Mọi nguồn thu của B.29 cũng nằm ngoài ngân sách Nhà nước.

B.29 tiến hành hạch toán kế toán riêng; mọi hoạt động thu, chi đều có báo cáo định kỳ đơn tuyến cho cấp trên, trực tiếp là Phó Thủ tướng Phạm Hùng (khi Phó Thủ tướng Phạm Hùng về Nam lãnh đạo Trung ương Cục thì Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị thay). Cách hạch toán của B.29 cũng rất đặc biệt, dùng USD làm đơn vị tiền tệ để hạch toán cân đối tổng hợp chung theo phương pháp kế toán kép. Tuy Ban lãnh đạo Ngân hàng Trung ương và Cục Ngoại hối về danh nghĩa là cấp trên của B.29, nhưng các hoạt động cụ thể của Quỹ thì lãnh đạo ngành ngân hàng không can dự.

Xưa nay trong nghiệp vụ ngân hàng, chung quy chỉ có 2 phương thức thanh toán là tiền mặt và chuyển khoản. Để chi viện cho miền Nam, Trung ương Cục (N2683) đề xuất và phối hợp với B.29 sử dụng cả 2 phương thức nói trên được mang mật hiệu là AM và FM. Hai khái niệm này chỉ là quy ước tuyệt mật của thời chiến, chưa hề có trong bất cứ sách giáo khoa nào về ngân hàng. Nhưng xét về tính năng hoạt động thì đó vẫn chỉ là hai phương pháp cổ điển của hoạt động ngân hàng: Chuyển tiền mặt được gọi là AM; chuyển khoản được gọi là FM.

Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, để thắng và “vượt mặt” một đối phương không những mạnh về quân sự mà còn rất tinh thông về tài chính - tiền tệ, hơn nữa còn khống chế cả hệ thống tiền tệ quốc tế như đế quốc Mỹ thì AM và FM là ký hiệu của cả một guồng máy phải rất tinh vi, liên kết hết sức chặt chẽ giữa hậu phương và tiền tuyến, giữa mạng lưới trong nước và quốc tế. Trong đó, ta vừa vận dụng những nghiệp vụ ngoại hối cổ điển của ngân hàng, vừa kết hợp với những kỹ thuật quân sự, tình báo mà xuyên suốt những hoạt động đó là ý chí cách mạng, là niềm tin và lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc.

Phương thức AM có những công đoạn chính sau: Một là, “chế biến” tiền từ nước ngoài. Tại các chiến trường miền Nam, nhu cầu tài chính bằng tiền mặt chủ yếu gồm 2 loại là tiền Sài Gòn (mật danh là tiền Z) và tiền USD. Ngoài ra, còn có nhu cầu chi phí tại một số địa bàn lân cận như Campuchia, Lào, Thái Lan, theo yêu cầu của kháng chiến cũng cần một lượng tiền mặt nhất định bằng đồng Riel, Kíp và Bath. Quy ước đổi tiền mặt các loại như sau: AZ là đổi USD thành tiền Sài Gòn; AK là đổi thành Kíp Lào; AR là đổi thành đồng Riel Campuchia; AB là đổi thành đồng Baht Thái Lan để chuyển vào các chiến trường có nhu cầu thích hợp với từng loại tiền.

Việc “chế biến” này được thực hiện từ nước ngoài với quy ước là “Anh Bảo” rồi chuyển về Hà Nội, từ Hà Nội chuyển đến các chiến trường miền Nam. Các loại tiền mặt do “Anh Bảo” chuẩn bị được tập kết lại một đường dây. Từ đây, cán bộ biệt phái hải ngoại của B.29 dùng đường điện cơ yếu của Bộ Ngoại giao thông báo từ nước sở tại về cho B.29 ở Hà Nội và B.29 cử người nhận về. Đối với các nguồn viện trợ quốc tế tại các nước Âu - Mỹ bằng rất nhiều bản tệ khác nhau như Bảng Anh, Franc Pháp, Franc Thụy Sĩ, Lire Italia, Couronne Đan Mạch... thì việc “chế biến” ra USD được giao cho Vietcombank Paris tiến hành ngay tại Pháp và Thụy Sĩ rồi bằng “giao thông ngoại giao” đưa qua Moscow về Hà Nội.

Lớp học nghiệp vụ ngân hàng những năm đầu giải phóng
Lớp học nghiệp vụ ngân hàng những năm đầu giải phóng

Hai là, đưa tiền vào Nam: đây là hành trình tiếp theo. Tiền của B.29 được cất giữ nghiêm ngặt tại tầng hầm Ngân hàng Nhà nước Trung ương. Đến thời điểm đã hẹn, một bộ phận đặc biệt chuyên trách vận chuyển là đơn vị C.100 thuộc Đoàn 559 cùng B.29 tiến hành các thủ tục giao nhận, đóng thùng đặc chủng chở đi. Giai đoạn đầu, tiền đi vào Nam theo một con đường khá “sang trọng”: đặt trong “va li ngoại giao”, nếu nhiều thì đóng trong các thùng nghi trang như đồ hộp xuất khẩu, từ Hà Nội đi Phnom Penh (đó là Campuchia dưới thời Sihanouk). Sau này, con đường thường xuyên và gian khổ nhất chính là vận chuyển tiền qua tuyến đường Trường Sơn bằng xe tải quân sự và đường biển trên các con tàu không số. Có thể nói giai đoạn hai của phương thức AM là những trang sử vô cùng oanh liệt với những tổn thất, hy sinh không nhỏ.

Ba là, tiếp nhận và “chế biến” tại chỗ: Trung ương phân bổ tiền theo từng khu vực lớn là Trị Thiên - Huế, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ (B2)... Tại từng khu vực, việc cấp phát, phân bổ, sử dụng, chi tiêu là công việc nội bộ từng nơi dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ với sự tham mưu chỉ đạo chuyên ngành là các Ban Tài chính hoặc Ban Kinh - Tài trực thuộc. Trong phương thức chi viện AM, tiền USD vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất. Khi có nhu cầu chi tiêu bằng biệt tệ mà số lượng do Trung ương chuyển vào không đủ thì phải tiến hành “chế biến” tại chỗ. Việc chế biến này được thực hiện theo cách phân tán nhỏ lẻ để khỏi bị lộ (Trung ương không chủ trương tích giữ dài ngày đồng tiền Sài Gòn vì từ sau 1970 đồng tiền này mất giá liên tục, tỷ lệ mất giá ngày càng cao).

Việc quản lý thu, chi, theo dõi hạch toán kế toán, kho quỹ được thực hiện rất chặt chẽ. Tại Ban Kinh - Tài hoặc cơ quan Ngân tín được Đảng bộ từng khu vực giao trách nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác này, các bộ phận chuyên trách về kế toán và kho quỹ đều được thành lập. Kế toán từng khu vực đều tiến hành đối chiếu số liệu định kỳ với kế toán B.29.

Cũng từ năm 1965, chi phí cho chiến trường miền Nam tăng lên rất nhanh, vận chuyển tiền bằng đường bộ, đường biển gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Việc “chế biến” lần thứ hai từ USD ra tiền Z Sài Gòn với số lượng quá lớn tại chiến trường cũng không thể nhanh chóng được. Vì vậy phải nghiên cứu, thực hiện bằng một phương thức khác.

Phương thức mới FM: Từ năm 1965, Trung ương Cục có chủ trương phát triển các cơ sở tại nội thành. Những cán bộ chủ chốt của Ban Tài chính đặc biệt đã được đưa vào nội thành bám trụ. Ý tưởng “chơi theo luật chơi” đã hình thành. Nghĩa là, sử dụng chính hệ thống ngân hàng của thế giới và hệ thống ngân hàng của chế độ Sài Gòn để chuyển tiền cho cách mạng. Sau khi nghiên cứu, Trung ương cho thực thi và gọi là phương thức mới, chi viện tiền cho miền Nam bằng chuyển khoản, ký hiệu là FM. Phương thức FM có hai chiều: nhận và trả.

Những cán bộ nữ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi viện cho chiến trường miền Nam
Những cán bộ nữ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi viện cho chiến trường miền Nam

Trong đó, chiều nhận: Tiền Z được lấy ngay tại Sài Gòn qua một đường dây hoạt động nội thành của Ban Tài chính đặc biệt thuộc N.2683. Sau đó hoàn trả cho nhà cung cấp tại nước ngoài bằng USD. Nhà cung cấp tiền Z Sài Gòn là những chủ kinh doanh lớn sẵn sàng hợp tác với một đầu mối của N.2683 trong nội thành Sài Gòn có mật danh là C.130, do một nhân vật có tên là Dân Sanh đảm nhiệm. Họ có tài khoản tại các ngân hàng thương mại nước ngoài ở Sài Gòn. Theo sự thỏa thuận với N.2683, họ rút tiền Z từ ngân hàng để cung cấp cho cách mạng nhưng lấy lý do là để sản xuất kinh doanh. Trong nhiều trường hợp có những khoản tiền lớn là tiền Z, không cần rút từ ngân hàng mà thu trực tiếp do bán hàng nhập khẩu.

Thí dụ, một Hoa kiều chuyên nhập vàng từ Hồng Kông (Trung Quốc) về bán buôn cho các chủ tiệm vàng ở Sài Gòn, cung cấp tiền mặt Z cho C.130. Đổi lại, sau đó các đại thương gia được thanh toán bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Như thế cả đôi đường đều có lợi. Tiền Z được giao tại những nơi quy ước, đó là vùng giáp ranh ven đô Sài Gòn - Gia Định, có khi còn đi xa hơn, phân tán trong các kho nhỏ rồi tổ chức các chuyến ô tô mang đi. 

Phương thức này có nhiều thuận lợi hơn phương thức AM vì có thể giải quyết một vụ chuyển tiền lớn chỉ trong một ngày thay vì nhiều tháng hành trình lênh đênh đầy rủi ro của phương thức AM. Phương thức này cũng kín đáo, an toàn hơn, chẳng những không bị thiệt thòi do tỷ giá mà nhiều trường hợp còn sinh lời nhờ hưởng lãi suất phát sinh tại các ngân hàng (khoản lãi thu được trong 10 năm lên tới 25 triệu USD).

Để thực hiện phương thức FM, cần phải có một hệ thống tổ chức rất tinh vi và dày công bố trí cán bộ nghiệp vụ: Tại Hà Nội B.29 thuộc Vietcombank sử dụng các mật mã, điện đài để liên lạc với miền Nam và liên lạc với các ngân hàng trên thế giới để nhận và gửi các lệnh chi tiền và chuyển tiền. Ở miền Nam, một bộ phận của N.2683 có Trưởng Ban Tài chính đặc biệt của Trung ương Cục phụ trách. Một bộ phận của Trung ương Cục đặt tại Sài Gòn gọi là Ban Công tác đặc biệt, là một “đối tác” đặc biệt của B.29. Đầu mối và cũng là cơ sở của N.2683 là một đại thương gia có khả năng chi tiền mặt cho N.2683. Rồi theo thông báo của N.2683, B.29 lại chi trả cho họ bằng cách chuyển ngân vào tài khoản của họ ở các ngân hàng nước ngoài.

Chuyển tiền cho các căn cứ: Sau khi rút được tiền từ ngân hàng, một khâu rất quan trọng nhưng lại đầy rủi ro là vận chuyển về các vùng căn cứ. Quy ước là chỉ nhận tiền lớn và đã đóng gói, có dấu của ngân hàng để đỡ mất công đếm lại. Sau khi nhận, tiền được cất trong các kho phân tán tại các cơ sở rải rác khắp nội thành. Cũng chính Dân Sanh là người tổ chức vận chuyển. Tiền giấy chở nhiều rất nặng. Dân Sanh phải tổ chức một loạt đường dây vận chuyển hợp pháp để kết hợp chở hàng, chở khách với việc chở tiền. Đây cũng là một kỳ công.

Tiền mặt các loại cuối cùng đều tới các vùng căn cứ kháng chiến, do các cơ quan tài chính và ngân tín trực tiếp quản lý, điều hành, phân phối theo các nhu cầu kháng chiến. Đối với các vùng căn cứ thuộc miền núi và cao nguyên hẻo lánh mà hệ thống ngân hàng không vươn tới được thì buộc phải dùng phương pháp thủ công, tức là người mang tiền đi. Còn đối với các vùng căn cứ gần các thị trấn, thị xã thì phương thức chuyển ngân được sử dụng bình thường. Với phương thức này, C.130 bố trí các đầu mối trên thị trường tiền tệ quốc nội của Nam Việt Nam để chuyển tiền từ N.2683 tới các thị trấn, thị xã. Ở đó có người của các khu, các căn cứ tới nhận. Một trong những tuyến chuyển ngân quan trọng nhất là chuyển từ C.130 Sài Gòn về các tỉnh miền Tây.

Tổng thể tiếp nhận và phân phối của 2 phương thức: Tại B2 và các địa bàn khác do Trung ương Cục chỉ đạo, có đơn vị kho quỹ là C.32 trực thuộc Ban Kinh - Tài của Trung ương Cục. Đó là đầu mối, là tổng quỹ tiếp nhận các nguồn tiền mặt từ Trung ương phân bổ vào theo AM và do N.2683 cung cấp theo FM. Trong hệ thống phân phối tiền từ Trung ương Cục tới các phân khu, có hệ thống các kho quỹ của khu và tỉnh. Tại chiến trường Liên khu V, nguồn tiền Trung ương đưa vào được Ngân tín Khu V thuộc Ban Tài - Mậu Liên Khu ủy tiếp nhận, quản lý và phân phối. Nếu phải “chế biến” từ USD ra tiền Z Sài Gòn, thì Ngân tín các tỉnh được giao trách nhiệm thực hiện chế biến phân tán nhỏ lẻ, theo sự chỉ đạo về số lượng và tỷ giá tối thiểu của Tài - Mậu Khu ủy...

Kết quả hoạt động 10 năm

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc với thắng lợi trọn vẹn. Quỹ ngoại tệ đặc biệt cùng B.29 và guồng máy kinh tài của Đảng ở khắp các chiến trường miền Nam cũng chấm dứt nhiệm vụ lịch sử của mình. Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, trực tiếp là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, những người đã làm việc âm thầm bao năm trong guồng máy này đã tiến hành việc “quyết toán” đúng với nghiệp vụ ngân hàng... Các chiến trường đã tiến hành đối chiếu các số liệu tiếp nhận viện trợ của Trung ương bằng ngoại tệ qua Quỹ đặc biệt suốt những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến ngày 30.4.1975. Trên cơ sở đó, đôn đốc chuyển nộp lại số tiền mặt ngoại tệ chưa dùng hết để tập trung thống nhất sử dụng theo yêu cầu của tình hình mới sau chiến tranh. Sau khi đã chi dùng đáp ứng mọi nhu cầu trên các chiến trường thì tổng số tiền còn lại là 218.474.176,61 USD.

Nếu phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã biết rõ và liên tục truy lùng, trút mưa bom, bão đạn lên những con đường mòn trên bộ, trên biển thì về con đường chuyển ngân này trên các tài liệu của Mỹ đã được giải mật, cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn hầu như đều không biết gì mà còn phán đoán rất sai rằng: có một kế hoạch của Liên Xô viện trợ vàng cho Việt Nam, với mức 9 tấn mỗi năm; Việt Nam tìm cách bán số vàng đó tại thị trường London để lấy ngoại tệ mang qua Campuchia mua các hàng hóa cần thiết rồi chuyển ra đường C-4 vào B2!

Cuộc vận hành một khối lượng tiền tệ các loại rất lớn, trong một thời gian khá dài của chiến tranh đã đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu phức tạp của kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cực kỳ thông minh, tài trí của Đảng, với một guồng máy tinh vi, một đạo quân đông đảo đã thực thi nhiệm vụ vô cùng hoàn hảo, tinh thông, chuẩn xác, tuyệt vời. Đạo quân ấy gồm những chiến sĩ thầm lặng ở B.29, N.2683, ở các khu, các căn cứ, trên những tuyến đường máu lửa và cả những người hoạt động âm thầm ở hải ngoại... Đó là một “binh chủng” không thể thiếu trong sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam. Thực thi nhiệm vụ trọng đại này, không chỉ có tấm lòng mà còn phải có ý chí sắt đá và lòng trung thành tuyệt đối, vô hạn với cách mạng của những “chiến binh thầm lặng”. Không có ý chí thì không thể vượt qua những trở ngại mà theo tính toán thông thường là không sao vượt qua được. Không có ý chí thì không thể nảy sinh ra vô vàn sáng kiến và những giải pháp hữu hiệu mà theo tính toán thông thường là không thể có. Và không có ý chí thì không thể chịu đựng được những vất vả, khó khăn, gian khổ, hiểm nghèo mà theo công thức thông thường về sinh học thì sức vóc con người không thể nào chịu đựng nổi.

________

(*) Biên soạn theo “5 đường mòn HỒ CHÍ MINH” của Đặng Phong, NXB Tri Thức.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Có một con đường như thế (*)
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO