Cơ chế nào để áp dụng “lẽ công bằng”?

Lam Tâm 26/06/2015 08:25

Bộ luật Dân sự giữ một vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Mỗi một điều, khoản của Bộ luật Dân sự được sửa đổi đều có ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ xã hội. Vì vậy, không ngạc nhiên khi bản Dự thảo Bộ luật đầu tiên được đưa ra lấy ý kiến, đã diễn ra nhiều cuộc tranh luận. Đặc biệt, nhiều ý kiến đã được đưa ra quanh câu hỏi: Tòa án có được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng không?

Theo khoản 2, Điều 14 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) thì câu trả lời dứt khoát là: Không! Tuy nhiên, theo khoản 2, Điều 4 Dự thảo Luật Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) thì Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.

Lý lẽ nào thuyết phục cho việc nên căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật hay áp dụng án lệ, áp dụng tương tự pháp luật, lẽ công bằng đối với các vụ, việc dân sự (trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng)? Những câu hỏi ấy đã làm nóng diễn đàn QH tại phiên thảo luận chiều qua.

ĐBQH Phùng Đức Tiến (Hà Nam) phát biểu tại Hội trường Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Phùng Đức Tiến (Hà Nam) phát biểu tại Hội trường Ảnh: Quang Khánh 

Quy định chung chung sẽ khó bảo đảm khách quan, công bằng

 Theo dõi quá trình thảo luận ở Hội trường về Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Vũ Đức Khiển nhận thấy quy định “Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng” rất lạ và cần được tranh luận kỹ. Bởi lẽ, khi xét xử tòa án phải căn cứ vào pháp luật. Giống như nguyên tắc Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân thủ pháp luật. Nếu theo quy định của Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) và Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) thì ngoài căn cứ pháp luật, tòa còn có thêm căn cứ là áp dụng án lệ, tập quán, áp dụng tương tự pháp luật, lẽ công bằng. Vấn đề đặt ra: thế nào là lẽ công bằng? Công lý, lẽ công bằng phải nằm trong bản án. Nói cách khác, khi tòa quyết định một bản án thì nội dung bản án đã thể hiện công lý, lẽ phải, lẽ công bằng - nguyên Chủ nhiệm Vũ Đức Khiển nhấn mạnh. Nếu sửa đổi theo hướng có thêm căn cứ án lệ, lẽ phải, lẽ công bằng để áp dụng trong xét xử thì phải chăng đây là căn cứ một cách trừu tượng?

Quy định về bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền tiếp tục được quy định trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) nhằm thể chế hóa Hiến pháp về việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Tuy nhiên, cũng như phiên thảo luận về Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự (sửa đổi), ý kiến của các ĐBQH chủ yếu chia thành hai luồng. Luồng thứ nhất ủng hộ quy định của Dự thảo Luật và cho rằng khẳng định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng là quy định mới, hay, tiến bộ. ĐB Tôn Thị Ngọc Hạnh (Đắk Nông) khẳng định, nội dung của Điều 14 thể hiện rõ nét nhất tính ưu việt cần tuân thủ đó là tôn trọng và bảo vệ quyền dân sự của cá nhân và pháp nhân. Vấn đề là cần áp dụng tập quán tại Điều 5 và áp dụng tương tự pháp luật tại Điều 6 như thế nào để bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Dự thảo Bộ luật. Theo đó, cần có cơ chế xác định những tập quán tốt đẹp cần phát huy, cần noi theo làm căn cứ xét xử và quy định rõ cơ quan nào sẽ thực hiện việc xác định này.

Về logic thì đúng là vậy. Người dân đóng thuế để nuôi bộ máy Nhà nước, trong đó có các cơ quan tư pháp. Vậy mà khi người dân có yêu cầu liên quan đến các vụ, việc dân sự đề nghị tòa giải quyết thì tòa lại trả lời rằng vì chưa có điều luật để áp dụng nên tòa không giải quyết là không hợp lẽ. Song theo nhiều ĐBQH khác thì trong điều kiện hệ thống pháp luật hiện nay của nước ta nếu quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng thì có khả thi không? Quy định này có gì mâu thuẫn với nguyên tắc hiến định: khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không? Hơn nữa, ngay những nội dung về áp dụng án lệ, tập quán, áp dụng tương tự pháp luật, lẽ công bằng quy định trong Dự thảo cũng chưa rõ cả về nội hàm và cơ chế áp dụng. 

Thực tế, việc áp dụng án lệ đã được thảo luận kỹ khi sửa đổi Hiến pháp. Theo quy định của Hiến pháp thì khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điểm c, khoản 2, Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân quy định giao thẩm quyền cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Nếu quy định áp dụng án lệ được chấp thuận thì trước hết cần làm rõ việc áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc dân sự trong mối quan hệ với quy định của Hiến pháp là khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là như thế nào. Có như vậy thì mới bảo đảm tính khả thi.

Tương tự như vậy, với quy định về việc áp dụng tương tự pháp luật, lẽ công bằng trong xét xử, nếu chỉ quy định chung chung như trong Dự thảo thì sẽ khó bảo đảm khách quan, công bằng cho tất cả các đương sự tham gia vào quá trình tố tụng. Hơn nữa, nhiều đại biểu cho rằng, việc sử dụng khái niệm lẽ công bằng tại khoản 2, Điều 6, Dự thảo Bộ luật để làm căn cứ xét xử cần được xem xét tính tương thích, tính phù hợp và tính khả thi trong tổng thể hệ thống pháp luật nước ta.

ĐBQH Nguyễn Hữu Hùng (Tiền Giang) phát biểu tại Hội trường Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Nguyễn Hữu Hùng (Tiền Giang) phát biểu tại Hội trường Ảnh: Quang Khánh

Cơ chế áp dụng “lẽ công bằng” thế nào để bảo đảm tính thống nhất, nghiêm minh của pháp luật?

 Cơ chế áp dụng “lẽ công bằng” như thế nào để bảo đảm tính thống nhất, nghiêm minh của pháp luật? Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp còn chỉ rõ: kinh nghiệm quốc tế cho thấy quy định nêu trên chủ yếu được áp dụng ở các nước theo hệ thống án lệ, nơi mà tòa án có quyền giải thích luật và án lệ là nguồn luật. Còn ở nước ta, án lệ không phải là nguồn luật, Tòa án nhân dân xét xử các vụ án, giải quyết các vụ việc trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, quy định như dự thảo không phù hợp với thực tiễn nước ta. Đa số ý kiến Ủy ban Tư pháp đề nghị bỏ quy định này.

Giải đáp cho câu hỏi này, ĐB Lưu Thị Huyền (Ninh Bình) cho rằng, lẽ công bằng ở đây chính là niềm tin nội tâm của mỗi người, nhưng mỗi người có một cách cảm nhận, cách hiểu khác nhau. Nếu áp dụng lẽ công bằng để giải quyết nghĩa là đã rời bỏ pháp luật và dễ dẫn đến sự tùy tiện, cách vận dụng khác nhau khi xét xử. Nếu áp dụng lẽ công bằng mà không có sự đồng ý của các bên đương sự thì điều này không còn gọi là lẽ công bằng nữa. Quy định này mang tính chất khẩu hiệu và lấp kẽ hở về mặt lập pháp, nhưng không bảo đảm tính minh bạch, khả thi khi vận dụng vào thực tiễn - ĐB Lưu Thị Huyền thẳng thắn. Trong thực tiễn, các vụ việc dân sự là loại việc rất khó khăn, thậm chí có những việc đặc biệt phức tạp. Ngay cả khi pháp luật có quy định thì cũng còn nhiều điều luật quy định chưa rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng của tòa án các cấp có lúc không thống nhất. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng số lượng án dân sự bị sửa, hủy nhiều, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng tới quyền lợi của đương sự. Mọi phán quyết của tòa án đòi hỏi tính chính xác cao. Các quyết định của các bản án đều phải rõ ràng đúng pháp luật. Nếu chưa có điều luật nào quy định thì không có thước đo chuẩn mực chung nào để tòa án áp dụng khi giải quyết các yêu cầu của người dân. Và cũng không có cơ sở pháp lý nào để căn cứ xác định phán quyết của tòa án là đúng hay sai, là phù hợp hay chưa phù hợp, bảo đảm được lẽ công bằng hay không. Quy định này sẽ không khả thi và dẫn đến tình trạng tùy tiện khi phán quyết. Cũng theo ĐB Lưu Thị Huyền, trong trường hợp có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau giữa các cấp tòa án, giữa tòa và viện kiểm sát mà không có cơ sở pháp lý vững chắc để khẳng định đâu là chân lý, thì thực chất tòa án không thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân. Một mặt do không có căn cứ để bảo vệ. Mặt khác, quy định như vậy không chỉ gây khó khăn cho tòa án mà quan trọng nhất là càng gây khó khăn, tốn kém về thời gian, công sức của người dân. Vì họ phải mất nhiều thời gian theo kiện các cấp tòa án mà không được phán quyết cuối cùng chính xác để giải quyết những tranh chấp của họ. ĐB Lưu Thị Huyền đề nghị cần bỏ toàn bộ khoản 2, Điều 14 và chỉ cần quy định nguyên tắc áp dụng tương tự, áp dụng phong tục tập quán và án lệ trong Bộ luật Dân sự sửa đổi lần này như tại Điều 5, Điều 6 là đủ. Vì điều này trái với quy định tại khoản 2, Điều 103 Hiến pháp năm 2013: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và tuân theo pháp luật.

Từ góc độ cơ quan thẩm tra, Ủy ban Pháp luật phân tích: đối với các nước áp dụng hệ thống thông luật (common law), trong trường hợp một vụ án phát sinh không có tiền lệ pháp phù hợp, không có luật thành văn hay tập quán pháp thì Thẩm phán chính là người tạo ra luật pháp bằng cách sử dụng lẽ phải (lẽ công bằng). Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, thẩm quyền giải thích luật đang được quy định cho UBTVQH. Hiến pháp cũng đang quy định Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Ủy ban Pháp luật đề nghị Ban soạn thảo làm rõ quy định tại khoản 2, Điều 6 có phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay không? Cơ chế áp dụng lẽ công bằng như thế nào để bảo đảm tính thống nhất, nghiêm minh của pháp luật?

Chỉ căn cứ theo pháp luật hay căn cứ áp dụng án lệ, tập quán, tương tự pháp luật, lẽ công bằng trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng? Theo Hiến pháp và pháp luật cũng như thực tiễn hệ thống pháp luật Việt Nam thì câu trả lời duy nhất là căn cứ vào pháp luật. Quan điểm của hai cơ quan thẩm tra là Ủy ban Tư pháp và Ủy ban Pháp luật đều khẳng định như vậy. Nhưng ở góc độ đại diện cho quyền, lợi ích của cử tri và nhân dân, một số ĐBQH đề nghị tất cả các yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự của người dân nhất thiết phải được tòa án chấp nhận, tòa không được từ chối bất cứ vụ, việc nào vì lý do chưa có điều luật áp dụng.

Nguyên tắc hoạt động của QH là tập thể và quyết định theo đa số. Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) và Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) chắc chắn không là ngoại lệ. Đương nhiên, vì là đạo luật khó, phạm vi ảnh hưởng rộng, nên việc sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ bất cứ một quy định nào cũng phải được cân nhắc thận trọng, nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đánh giá tác động xã hội đầy đủ, toàn diện. Đối với từng điều, khoản cần có sự giải trình rõ và thuyết phục hơn nữa lý do của việc sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ. Quyền quyết định tối cao thuộc về QH.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Cơ chế nào để áp dụng “lẽ công bằng”?
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO