Chuyên mục 80 năm Quốc hội Việt Nam: Trần Đình Tri - Nhà lãnh đạo tận tụy góp phần xây dựng nền móng Quốc hội Việt Nam hiện đại
Ông Trần Đình Tri (1915 - 1994) là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt, gắn bó trọn đời với Quốc hội Việt Nam; với hơn 35 năm làm đại biểu Quốc hội và nhiều năm lãnh đạo Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tiền thân của Văn phòng Quốc hội, ông đã có đóng góp nổi bật trong việc kiện toàn bộ máy giúp việc, đổi mới phương thức vận hành và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội qua các giai đoạn lịch sử.

Ông Trần Đình Tri được nhớ đến như tấm gương của sự tận tụy, liêm khiết và gắn bó với sự phát triển của cơ quan lập pháp Việt Nam, được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh vì những cống hiến xuất sắc cho đất nước; người đặt nền móng đổi mới tổ chức Quốc hội qua các thời kỳ.
Ông Trần Đình Tri (1915 - 1994), là một trong những người luôn sát cánh cùng nhiều thế hệ lãnh đạo Quốc hội, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả của Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, góp phần xây dựng bộ máy tham mưu giúp việc và hỗ trợ kỹ thuật Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội trong các giai đoạn lịch sử quan trọng của cơ quan lập pháp từ Khóa I tới Khóa VI.
Ông từng là Ủy viên Thư ký Ban Thường trực Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chánh Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tiền thân của Văn phòng Quốc hội nhiều khóa; ông Trần Đình Tri sinh ngày 10/04/1915 tại làng Gia Cốc, tổng Phú Mỹ, phủ Duy Xuyên, nay thuộc xã Đại Minh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình khá giả. Học hết tiểu học ở Trường Mỹ Hòa (Đại Lộc), ông thi vào Quốc học Huế. Sau khi đỗ thành chung (1937), Trần Đình Tri ra Hà Nội viết báo, làm biên tập cho một nhà xuất bản, tiếp xúc với những đảng viên cộng sản như Đào Duy Kỳ, Thành Ngọc Quảng, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh…
Năm 1938, Trần Đình Tri vào Sài Gòn dạy học, viết báo. Trong đợt khủng bố trắng sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940), ông bị địch bắt giam ở Khám Lớn (Sài Gòn), bị kết án 5 năm tù, đày ra Côn Đảo, đến năm 1944 thì chuyển về giam ở nhà lao Trà Khê (miền tây Phú Yên). Trong những ngày bị giam cầm ở Côn Đảo, Trần Đình Tri có cơ hội tiếp xúc với nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng như Hoàng Quốc Việt, Lê Duẩn, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Linh…, được học tập nâng cao về trình độ lý luận, rèn luyện thêm ý chí của người cách mạng.
Sau cuộc Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), Trần Đình Tri cùng với nhiều đồng chí khác thoát ngục về lại quê hương Quảng Nam, vận động nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Ông có chân trong Ủy ban khởi nghĩa của thị xã Hội An và là người trực tiếp đến dinh Tỉnh trưởng Quảng Nam gặp Tôn Thất Giáng, đưa tối hậu thư buộc phải bàn giao chính quyền cho Mặt trận Việt Minh. Tháng 9/1945, Trần Đình Tri được cử làm Ủy viên Ủy ban Nhân dân Trung Bộ; tháng 11/1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trần Đình Tri được bầu làm đại biểu Quốc hội của tỉnh Quảng Nam khóa đầu tiên (1946). Tháng 2/1946, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Đà Nẵng. Tháng 12/1946, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam sáp nhập thành một đơn vị hành chính, ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chính Quảng Nam - Đà Nẵng. Tháng 8/1949, ông được điều về công tác ở liên khu V, làm Ủy viên, rồi Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chính miền Nam Trung Bộ. Tại Đại hội Đảng bộ liên khu V lần thứ II (8/1951), Trần Đình Tri được bầu làm Ủy viên dự khuyết Liên khu ủy V. Khi hòa bình lập lại, ông tập kết ra Bắc, làm đại biểu chuyên trách của Quốc hội. Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa I từ ngày 29/12/1956 đến 21/1/1957, Ban Thường trực mới của Quốc hội được bầu ra do cụ Tôn Đức Thắng làm Trưởng Ban, cụ Tôn Quang Phiệt làm Phó Trưởng Ban và Ủy viên Thư ký là ông Trần Đình Tri.

Ngày 2/7/1976, Quốc hội Khóa VI (1976 - 1981) đã bầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội do ông Trường Chinh làm Chủ tịch, ông Trần Đình Chi là Ủy viên. Đây là giai đoạn đặc biệt khi Quốc hội thống nhất cùng cả nước bước vào giai đoạn cách mạng mới, cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Hiến pháp mới (1980), xây dựng luật, pháp lệnh và tăng cường vai trò giám sát. Ông đã trực tiếp hai lần tham gia Ủy ban dự thảo Hiến pháp 1946, 1980 (Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1976 - 1992, NXB Chính trị quốc gia, năm 2012, trang 52), đổi mới hệ thống tổ chức, quy chế, quy trình hoạt động để không ngừng nâng cao năng lực tham mưu, giúp việc, tạo nền tảng để Quốc hội thực sự là trung tâm của quyền lực Nhà nước, của Nhân dân.
Trước đó, ngày 23/3/1974, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa IV (1971 - 1975) đã quyết định đặt chức Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội để giúp Tổng Thư ký Quốc hội trong việc điều hành và quản lý Văn phòng; ông Trần Đình Tri, Ủy viên Thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội được bổ nhiệm kiêm giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng (1); ông cũng đã từng đảm đương các chức trách: Ủy viên Ủy ban Dân tộc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.
Dưới sự chỉ đạo của ông, cơ quan Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã duy trì sự ổn định, vững mạnh của bộ máy giúp việc, góp phần giữ vững vai trò trung tâm của Quốc hội trong hệ thống chính quyền nhà nước, đóng vai trò quyết định trong các hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước. Ông được đồng chí, đồng nghiệp đánh giá là người lãnh đạo uy tín, tận tụy và có tầm nhìn, để lại nhiều dấu ấn trong sự phát triển của Quốc hội Việt Nam.
Việc đổi mới phương thức, cải tiến tổ chức hoạt động của Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội do ông chủ trì đã định hình mô hình cơ quan giúp việc của Quốc hội làm công tác nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ mọi hoạt động của Quốc hội tới nay vẫn còn nguyên giá trị tham khảo và kế thừa. Tấm gương tận tụy, giản dị và di sản để lại cho các thế hệ sau. Kiến trúc sư Trần Đình Thái, con trai út của ông, bạn lâu năm của tôi cho biết, từ khi còn bé, gia đình ông Trần Đình Tri luôn ở trong khu tập thể của cán bộ, nhân viên Quốc hội phía sau khu nhà làm việc ở số nhà 35 phố Ngô Quyền cùng với một số gia đình cán bộ khác của Văn phòng; anh Thái kể ông luôn bận bịu với công việc, từ xử lý văn bản, tài liệu, hồ sơ đến công tác đối ngoại. Những lần ông đi công tác nước ngoài đều phải đến kho của Bộ Tài chính để mượn áo vét, áo khoác ấm, giày tất. Khi đi công tác về lại phải đem nộp lại tất cả quà bạn tặng cho cơ quan. Ngay cả quà tặng, lưu niệm của các đoàn nước ngoài, sau khi tiếp khách ông cũng để lại Văn phòng. Thời ông làm việc, Văn phòng Quốc hội có cả một phòng to trưng bày đồ lưu niệm hay quà tặng của các đoàn khách quốc tế tới thăm Quốc hội; ông hầu như không có tài sản gì đáng kể.

Anh Thái còn nhớ, khi đó Văn phòng Quốc hội khá ít người, mọi người, kể cả Chủ nhiệm Văn phòng đều tập thể dục chung ở sân trước; ông Tri sống vô cùng giản dị, sáng đi làm, trưa về nhà ăn cơm rồi lại sang cơ quan làm việc. Ông ít khi sử dụng ô tô, đi lại có khi chỉ dùng xe com-măng-ca. Ngày mới giải phóng, Văn phòng có bố trí cho ông một chiếc xe Ford Mustang rất đẹp điều từ miền Nam ra nhưng ông chưa bao giờ đi vì “xe Mỹ tốn xăng”. Có lúc cơ quan đã bố trí cho ông 2 phòng ở số nhà 27 phố Trần Hưng Đạo nhưng ông cũng không nhận. Ông cứ ở nhà tập thể như vậy mãi cho tới khi con gái lớn đi học ở Hungary về, chuẩn bị lấy chồng mới chuyển ra ngoài ở.
Ông Trần Đình Tri được nhiều vị lão thành của Quốc hội thường nhắc tới như một tấm gương của sự tận tụy, phong cách làm việc trách nhiệm, gương mẫu, hành xử tận tụy, uy tín và gắn bó trọn đời với sự phát triển của Quốc hội Việt Nam. Ông đã được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh vào ngày 5/1/2011 do đã có nhiều công lao, đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, nhân dịp kỷ niệm 65 năm Quốc hội Việt Nam. Cụ bà Trương Thị Mộng Lan đã thay ông tiếp nhận Huân chương cao quý đó.
Nhìn ngược lại thời gian, chúng ta có thể thấy di sản mà ông Trần Đình Tri để lại không chỉ là những đổi mới trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội mà còn là tấm gương sáng về sự tận tụy, giản dị và liêm khiết. Cuộc đời và sự nghiệp của ông mãi là nguồn cảm hứng cho các thế hệ cán bộ Quốc hội tiếp bước, góp phần xây dựng cơ quan lập pháp của đất nước ngày càng vững mạnh và hiệu quả hơn.
(1) Lịch sử Quốc hội Việt Nam. Tập II, 1960-1976, NXB Chính trị quốc gia Sự thật năm 2016, trang 154