Chuyện học

10/09/2007 00:00

“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Những lời ấy trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi học sinh nhân ngày khai giảng năm học mới của nước Việt Nam mới được khai sinh với “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2 tháng 9 năm 1945, càng trở nên sống động và giục giã trong những ngày này, ngày khai giảng năm học mới trong bối cảnh mới của đất nước và thời đại. Chuyện học gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Coi trọng chuyện học là một nét truyền thống nổi bật của dân tộc ta.

      Với quyết tâm dù nghèo khổ đến đâu cũng cố lo cho con ăn học “kiếm dăm ba chữ để làm người”, đó là cái nền của sự học vốn được xây đắp trong suốt chiều dài lịch sử. Đấy cũng chính là nền móng của bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Không có bản lĩnh đó, dân tộc ta không thể tồn tại trong cái thế kẹt địa - chính trị như “trứng nằm dưới đá” để phát triển được như hôm nay. Giải thích điều này, giáo sư Trần Quốc Vượng mượn câu thơ của Trần Dụ Tông ca ngợi đức độ của vua Trần Thái Tông “Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng” để chỉ ra rằng “Tuy Đồng mà Bất đồng” là một công thức hay để chỉ thế đối sánh Việt Nam-Trung Quốc. Đồng ở cách, bất đồng ở cốt, giống nhau ở phần biểu kiến, hiện tượng - kết quả Trung Quốc hóa, hội nhập văn hóa với Trung Quốc trên bề mặt - khác nhau ở phần tiềm ẩn, bản chất - kết quả dân tộc hóa, giải Hán hóa dưới bề sâu”. 
      Đấy là một giải pháp văn hóa, một giải pháp Việt Nam. Mà cái bề sâu của giải pháp ấy chính là chuyện học. Cho nên Vũ Khâm Lâm (1703...) lo lắng: “năm sáu mươi năm gần đây, kẻ trên thì dạy nó, kẻ dưới thì học nó, đua nhau theo đòi cái ngọn cùa từ chương, tỉa tách chạm trổ, hết mực xa hoa, cỏ biếc trăng non thật là tinh xảo. Nhưng tìm xem có điều gì quan hệ tới quốc kế dân sinh thì tuyệt nhiên vắng bóng. Lề thói thì ưa chuộng lả lướt, dần dần đi tới mất nước, mà kẻ sĩ chuộng nghĩa tử tiết cũng chẳng thấy nhiều”. Ngô Thì Sĩ (1726-1780) thì hết sức lo âu về cách học “nếu không một phen chấn chỉnh, thay đổi hẳn nếp cũ, thần e rằng trong vài chục năm nữa sẽ rơi vào con đường ti tiện”. Ông đòi hỏi “kẻ đi học phải bỏ lối tầm chương trích cú, mà theo đuổi học rộng biết nhiều”. Còn Nguyễn Hành (1771-1824), một trong “năm người tài giỏi” (An Nam ngũ tuyệt) thời bấy giờ, thì yêu cầu cách học phải thiết thực, gắn với đời sống đất nước: “Tôi thường đọc sách của người xưa, tìm hiểu việc làm của người xưa, nói không hết lòng ngưỡng mộ. Nhưng mơ tưởng về người xưa, sao bằng mắt thấy tai nghe về đời này, cầu ở nước ngoài sao bằng tìm ở nước nhà…”. Quả là chuyện học trĩu nặng trong suy tư, trăn trở của ông cha ta bao đời. Xưa đã như vậy, nay càng như vậy.
       Học vừa là quyền vừa là nghĩa vụ công dân. Điều ấy được ghi trong Điều thứ 15 của Hiến pháp năm 1946 và rồi sau đó, các Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp này được sửa đổi bổ sung năm 2001 đều khẳng định “quyền” và “nghĩa vụ” ấy. Về nguyên tắc, những quyền được Hiến pháp quy định thì phải thực hiện. Người công dân và Nhà nước đều có nghĩa vụ thực hiện. Quyền được học vừa là phổ biến nhất, liên quan đến mọi gia đình Việt Nam, vừa có ý nghĩa sâu xa nhất, vì “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Cho nên, có một số “quyền” của công dân tuy đã được ghi trong Hiến pháp, nhưng vì những điều kiện ràng buộc nào đó nên chưa được thực hiện hoặc chậm thực hiện, phải phấn đấu quyết liệt để mọi quyền ấy đều phải được thực hiện, mà bức xúc nhất là quyền được học
      Từ những ngày chính quyền nhân dân còn trong trứng nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng chuyện học của thế hệ trẻ. Vì thế, giáo dục đã từng là một điểm son chói lọi trong sự nghiệp của nhân dân ta qua bao gian lao thử thách, kể cả khi chuyện học ấy phải thực hiện dưới mưa bom bão đạn. Nhưng rồi vì lẽ gì mà trong vài thập niên gần đây, tuy vẫn có những đột khởi nổi bật của những tài năng và thành tựu, song không thể không thấy chuyện học bị xuống cấp nghiêm trọng và đang là nỗi lo lắng của triệu triệu gia đình Việt Nam, mặc dầu khẩu hiệu “giáo dục là quốc sách hàng đầu, là chìa khóa phát triển đất nước” được đề ra cũng đã lâu và thường xuyên được nói đến. Trách nhiệm của ngành giáo dục, chuyện ấy là hiển nhiên. Song không thể quy trách nhiệm cho riêng ngành giáo dục, điều này cũng hiển nhiên như vậy.
      Tìm cho ra sự xuống cấp của sự nghiệp giáo dục đòi hỏi một cái nhìn tổng thể, bao quát nhiều lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và đời sống tinh thần của xã hội, để dám chỉ ra nguyên nhân cơ bản của nó. Có vậy mới đưa ra được giải pháp mang tính chiến lược, vừa xoay chuyển hẳn thực trạng với những đột phá có ý nghĩa cách mạng, vừa đáp ứng được những đòi hỏi về nguồn nhân lực tương thích với tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước. Giáo dục không thể thoát ly trình độ kinh tế hiện có, song, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho kinh tế một cách thông minh và bền vững nhất, là một cách đầu tư sinh lợi cao nhất. Đây là bài học sống động của những nước từng có những xuất phát điểm về trình độ kinh tế như ta, song nhờ biết đầu tư cho giáo dục một cách thích đáng nên chỉ mấy thập niên qua, họ đã có những bước tiến bỏ xa chúng ta, không chỉ về bình quân thu nhập đầu người, mà còn về nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ. Chính vì thế, trong nhiều lo toan của người cầm quyền cũng như của toàn xã hội, những lao tâm khổ tứ tìm ra những giải pháp đúng đắn, sáng tạo đưa lại những hiệu quả cụ thể trong sự nghiệp phát triển của đất nước hiện nay, chuyện học của thế hệ trẻ nói riêng và chuyện học nói chung của mọi người trong xã hội phải là mối lo toan hàng đầu khi tiến trình hội nhập đi vào chiều sâu .
      Điều này có cái lý riêng của nó. Không phải chỉ vì thực trạng của ngành giáo dục và đào tạo của nước ta hôm nay, mà còn là vì phải đáp ứng đòi hỏi nghiêm khắc của thời đại chúng ta đang sống. Đó là thời đại của nền văn minh trí tuệ mà nét nổi bật của nó, theo Peter Drucker, một trong bốn cây đại thụ của nền quản trị thế giới thì đó là  “sự thay đổi vĩ đại nhất sẽ là sự thay đổi về tri thức, về hình thức và nội dung, về ý nghĩa của tri thức, về trách nhiệm của tri thức đối với những đặc điểm của con người có giáo dục. “Con người có giáo dục ấy sẽ quyết định khả năng hoạt động của xã hội, là hiện thân của các giá trị, niềm tin và trách nhiệm xã hội”. Chính con người này cầm chìa khóa của phát triển. Bài học nghiêm khắc và sống động của những nước đã thành công trong phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, trong đó có cả những nước mới phát triển, đã chứng minh điều đó. Với lợi thế của người đi sau, học lấy bài học của thế giới, chúng ta càng thấy rõ sự bức bách của việc phải hình thành một đội ngũ “những người có giáo dục” làm nòng cốt cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời đại của văn minh trí tuệ và nền kinh tế tri thức.  
      Khi đã xác định được như thế, thì bằng mọi cách, toàn xã hội phải biết dồn sức cho chuyện học. Đây là thời điểm thực thi khát vọng “khai dân trí, chấn dân khí” từng được những bộ óc lớn đầu thế kỷ XX khơi dậy song chưa có điều kiện thực hiện. Làm sao để mở mang “dân trí” được khi mà “ngu dân” là quốc sách của chế độ thực dân? Nếu không làm cách mạng để giành lại độc lập và tự do, vẫn cam chịu thân phận nô lệ thì làm sao thực hiện được việc “khai dân trí” và “chấn dân khí”? Cũng chính vì thế, ngay khi đã giành được độc lập, tự do, thì “làm cho dân có học hành” là một trong bốn nhiệm vụ cấp bách nhất mà Hồ Chí Minh đề ra trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc ngay sau khi khẳng định rằng “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ”. Cho nên, cùng với việc chống giặc đói, phải làm ngay việc chống giặc dốt. Ngay cả khi ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm, việc học cũng không thể xao lãng. Phong trào “bình dân học vụ” từng dấy lên một nguồn sinh khí mới trong đời sống xã hội mà cuộc sống vật chất còn vô vàn khó khăn, làm bừng nở truyền thống hiếu học của dân tộc, tạo nên được một trong những nét đẹp nhất diện mạo tinh thần của dân tộc. Rồi, hình ảnh các cháu bé đội mũ rơm đến trường trong những thời đoạn chiến tranh ác liệt nhất, và những lớp học, hội trường nằm ẩn kín dưới rừng cây vùng núi Đại Từ, Thái Nguyên do chính bàn tay của những sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội dựng lên đã tô thắm thêm cho nét đẹp của truyền thống hiếu học đó. 
      Vì bất cứ lý do gì để phôi pha đi nét đẹp ấy là điều không thể biện hộ được với lịch sử. “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật”, Nguyễn Trãi từng nhắc nhở, họa hay phúc đều có manh mối, không phải là chuyện của một ngày. Để phôi pha chuyện học, làm hoen ố vẻ đẹp của truyền thống suy tôn chuyện học, cần phải được truy tìm trong quan điểm đường lối dùng người và chọn người, trong nhận thức về vai trò của trí thức và cách đào tạo hiền tài cho đất nước, trong chính sách cán bộ và công tác tổ chức. Đối chiếu với sự yếu kém của bộ máy quản lý các cấp hiện nay, sự thiếu hụt của những nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành, đặc biệt là trong khoa học xã hội, phải thấy cho ra cái “manh mối” ấy “không là chuyện của một ngày”, mà là hệ lụy của cả một thời đoạn. Cần có bản lĩnh nhìn thẳng vào sự thật và nói đúng sự thật, có vậy mới tìm ra được giải pháp đúng với tầm cỡ phải có. 
      Vì có một sự thật rất thuyết phục là, bên cạnh những bê bối của sự sút kém chất lượng giáo dục và đào tạo, đã có không ít những tấm gương rất sáng về tinh thần hiếu học và thành tích đã đạt được. Mùa bội thu của tuyển Việt Nam tham dự kỳ thi Olympic Toán quốc tế tổ chức tại Hà Nội vừa rồi là một ví dụ rất sinh động. Và cũng có một sự thật là những tấm huy chương qua các kỳ thi quốc tế, những tên tuổi khoa học đem lại vinh dự cho đất nước, những thủ khoa của những kỳ tuyển sinh đại học năm nay mà báo chí đưa tin, bên cạnh những tài năng được vun đắp từ truyền thống gia đình có bề dày về chuyện học, có không ít những hiện tượng đột xuất, những học sinh nghèo rất thiếu thốn về điều kiện ăn học cũng chẳng thua kém. Chuyện hai học sinh nghèo là “thủ khoa” vừa được đài truyền hình VTV1 giới thiệu trong chuyên mục “Người xây tổ ấm” vừa qua là một minh chứng.
      Thế nhưng, lại có một sự thật đáng buồn là chỉ 2% dân số nước ta được học từ 13 năm trở lên và chỉ có 10% trong độ tuổi từ 20 đến 24 được học đại học. Hãy lướt qua những con số tỷ lệ phần trăm đó ở Trung Quốc là 15%, Thái Lan là 41%, Hàn Quốc là 81%. Đó là những con số do Ngân hàng Thế giới công bố năm 2006. Ấy vậy mà mức chi tiêu ngân sách cho giáo dục năm 2005 thì Việt Nam chiếm 8,3% GDP trong lúc Mỹ là 7,2%, Hàn Quốc là 7,1%, Pháp là 6,1% và Nhật là 4,7%, theo thống kê của Liên Hợp Quốc.
      Vẫn còn nhiều trẻ em đến tuổi đi học chưa được đến trường. Lễ khai giảng năm học mới ở trường tiểu học xã Kênh Giang, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương chỉ vỏn vẹn 37 em cho cả 5 khối học, cho dù một em học sinh lớp 4A vẫn hồn nhiên nói “Khai giảng của chúng em không như các bạn trên tivi. Vì trường các bạn đông hơn, đẹp hơn. Nhưng ở đây, chúng em cũng thấy rất vui”. Niềm vui được đi học! Niềm vui đó của nhiều em khác bị tước bỏ vì bố mẹ chúng nghèo quá, không có điều kiện cho chúng đến trường. Tại thành phố Hồ Chí Minh, một bà mẹ lủi thủi dắt con mình ra về, dù cháu bé đang mặc bộ đồng phục của trường được ủi tươm tất. Đôi mắt ngơ ngác của bé níu tay mẹ ra khỏi cổng trường Mầm non 4, P4, Quận 3. Bé chưa sao hiểu được, chỉ  vì bé chưa có cái biên lai đã đóng tiền để được bước vào lớp học mà bé đang háo hức.
      Tước bỏ quyền được học của trẻ em nghèo là sự bất công xã hội đau xót nhất. Vì đó là sự tước bỏ cơ hội để thoát khỏi sự đói nghèo của một bộ phận lớn dân cư. Hơn nữa, đừng quên rằng, hai thủ khoa kỳ tuyển sinh Đại học mà VTV1 vừa có buổi giới thiệu, là hai học sinh con nhà nghèo. Còn biết bao nhiêu “hiền tài”, mà ông cha ta gọi là “nguyên khí quốc gia” đang được nuôi dưỡng dưới những mái tranh nghèo?
      Trả lời câu hỏi “điều gì là nỗi lo lớn nhất”, cả hai “thủ khoa” cũng như bố mẹ của hai em là nỗi lo về học phí và điều kiện sống để theo học trong những năm ở đại học. Theo một khảo sát của Đại học Văn Lang, dự trù mức sinh hoạt phí cho một sinh viên các tỉnh về thành phố Hồ Chí Minh trọ học là 9.925.000đ một học kỳ (5 tháng). So với năm học 2005-2006 tăng khoảng 2,2 triệu đồng.
      “Không để sinh viên bỏ học vì học phí”, với tư tưởng chỉ đạo đó, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành chỉ thị về thực hiện chế độ cho vay ưu đãi để học đại học, cao đẳng và dạy nghề. Đây là một giải pháp thiết thực và có hiệu quả giúp sinh viên nghèo có cơ hội thực hiện “quyền và nghĩa vụ” được học của mình, phấn đấu trở thành “hiền tài” của đất nước. Để cho giải pháp trên phát huy được tác dụng thiết thực và bền lâu đòi hỏi sự nỗ lực của cả sinh viên và nhà nước. 
      Chuyện học là chuyện “quốc gia đại sự”, phải trở thành vấn đề của mọi vấn đề đối với sự nghiệp phát triển đất nước trong thế kỷ XXI.

Tương Lai

    Nổi bật
        Mới nhất
        Chuyện học
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO