Chuyện bên kè đá (Phần 1)
Truyện ngắn của Trần Thanh Cảnh

06/04/2015 08:17

Dì Hương, vợ chú Thông tự tử.

Dì trẫm mình xuống sông Đuống, chỗ kè đá.

Buổi sáng, dì dậy sớm như thường, nấu ăn cho mọi người trong nhà, rồi bảo với chú, tôi qua nhà chị Lan chơi. Chị Lan là chị gái của dì, mẹ tôi. Mãi trưa, không thấy dì về, mọi người đổ đi tìm. Như có một ai đó dắt, tôi đi ra phía bờ sông, lối xuống kè đá. Đường đi xuống bến sông rậm rạp um tùm những cỏ gianh cỏ lau ngút đầu người. Ngày trước, bãi sông quê tôi xanh mướt ngô rau. Con đường đi xuống kè đá bến sông chiều đến tấp nập người gánh nước tưới rau màu. Dịp gần đây, đồng bãi chuyển sang trồng chuối tiêu hồng xuất khẩu. Con đường xuống bến lấy nước không dùng đến, thành ra như con đường hoang.

 Đến bờ kè, tôi thấy một chiếc nón lá để ngửa, trong lòng nón có đôi dép nhựa, đặt ngay ngắn cẩn thận đè lên cái chứng minh nhân dân của dì Hương và một tờ giấy có vài dòng nguệch ngoạc: “Dì thấy mình chả thiết sống nữa. Dì cũng không còn mong đợi gì ở cuộc đời này. Nam đưa dì về chôn cạnh ông bà ngoại nhé”.

Đọc xong mấy dòng chữ dì Hương để lại, đầu tôi như bị đơ. Ngồi thụp xuống bờ sông, không nghĩ ra được mình phải làm gì.

Mà sao dì lại để thư cho tôi?

Sông Đuống tháng sáu, nước đã khá cao, nguồn đỏ. Gầm gừ.

 
***

Dì Hương là vợ thứ hai của chú Thông.

Vợ đầu của chú cũng tự tử ở kè đá, lúc cô ấy hai mươi ba tuổi, ở với chú Thông được năm năm.

 Ba năm sau, chú Thông nhờ người mang trầu cau đến hỏi dì Hương. Năm ấy dì mới hai mươi nhăm tuổi. Nhưng nhan sắc có phần khiêm tốn. Con gái làng tôi, ngày xưa, chỉ mười ba là cưới. Nay thời mới, nếu không đi ra ngoài, thì cũng chỉ mười tám là lấy chồng hết lượt. Bọn bạn ngoài trường đại học với tôi vẫn bảo, gái làng mày rặt đĩ non. Thế mà dì tôi năm ấy vẫn ở nhà cấy mấy sào lúa với ông bà ngoại tôi, coi như đã ế.

Ông ngoại tôi cố giấu tiếng thở dài, gật đầu đồng ý gả dì tôi cho chú Thông.

Bà ngoại tôi than: “Nhà ấy nặng đất lắm, về đấy rồi biết sống chết ra sao”.

Ông gắt: “Bà này hay nhỉ, nhà người ta cũng đàng hoàng, bề thế. Con Hương nhà mình vào cửa ấy tốt chứ sao”.

 
***

 Bến sông làng tôi có cái kè đá.

 Rất nhiều người đã chọn làm nơi kết thúc cuộc đời.

 Xưa, đấy là chỗ lấy nước tưới rau màu đồng bãi. Và cũng là bến đò ngang, sang bên kia sông hồi chưa có cầu.

 Ngày tôi còn bé, chơi bên nhà ông ngoại, nghe ông ngồi rung đùi uống nước chè mạn Hà Giang với mấy ông bạn du kích cũ, kể, hồi kháng chiến, cho cai Tuân, đội Thân… đi “mò tôm” ở kè đá. Tôi hỏi, ông ơi, ở kè đá có nhiều tôm càng to lắm phải không? Cháu rất thích ăn cơm với tôm càng to rang muối. Ông tôi xoa đầu bảo: “Cháu không được ra chơi ngoài kè đá một mình nhé. Dưới đấy có con thuồng luồng chuyên rút chân trẻ con xuống sông ăn thịt”.

 Lớn hơn một chút, tôi thích đi câu tôm với lũ bạn ở kè đá.

Nhiều hôm hứng lên, rủ nhau bơi qua bờ bên kia vặt trộm ngô hay bẻ mía của làng Lãng, mặc dù bên này các thứ ấy cũng đầy bãi. Hình như ngô và mía bên Lãng ngọt hơn.

 Nhưng tôi vẫn nhớ cái cảm giác lần đầu tiên bơi ra giữa sông. Ở trên bờ thì thấy cũng thường thôi. Nhưng khi ra giữa sông rồi, tự nhiên có cảm giác con sông này rộng kinh khủng, bốn bề mênh mông toàn nước. Câu chuyện về con thuồng luồng chuyên rút chân người ăn thịt chợt hiện về. Chân tay tự nhiên thấy chới với. Rờn rợn. Sau này, bơi nhiều lần, quen, không còn cảm giác ấy nữa.

 Người làng tôi nói với nhau là ai đó, đi “tắm mát”, “mò tôm” ở kè đá. Nghĩa là đời họ đã đi đứt.

 Ông ngoại tôi kể, hồi Pháp đóng đồn ở đầu đê. Bắt được ông Dương Hữu Nam, là đội trưởng du kích làng Nghi Xá. Trói giật cánh khuỷu, giải ra bờ kè xử bắn. Khi toán lính còn đang hô lên đạn, ông Nam nhảy tòm xuống sông, lặn ra giữa dòng. Lính bắn theo xuống nước đạn rơi bồm bộp như trẻ trâu chơi trò thia lia. Thế mà ông Nam thoát chết. Sau này, ông ấy làm đến chức chủ tịch huyện. Cũng vẫn ông ngoại tôi kể, hồi cải cách ruộng đất, ba địa chủ bị bắn ngay trên kè, liền một lúc. Máu đỏ loang khúc sông. Bắn người ở kè đá rất tiện, khỏi phải chôn. Bắn xong, đạp xác xuống nước, trôi tít về biển, làm mồi cho cá.

 
Minh họa của Trung Dũng
Minh họa của Trung Dũng
Năm ngoái, cũng mùa nước lên. Cụ Thư, bô lão cao niên nhất làng, râu tóc bạc phơ, đẹp như tiên, cũng ra kè đá. Lúc cụ ấy đi từ làng ra sông, gặp đứa cháu ngoại đi làm đồng bãi về, hỏi: “Ông đi đâu đấy”, “Tao ra kè đá tắm mát đây. Sống mãi chả chết cho. Chán lắm”. Đứa cháu cứ tưởng cụ đùa. Đi lên đến bờ đê mới giật mình, chạy trở lại. Thì trên bờ kè đá chỉ còn mỗi đôi dép. Cụ Thư đã chìm nghỉm, trôi tít tận đâu đâu rồi. Nhà cụ Thư thuộc hàng danh giá trong làng. Tứ đại nhà cụ quây quần với nhau trong mấy cái nhà cổ giữa làng. Khi vớt được xác cụ ấy lên để làm ma, cô con gái út của cụ lấy chồng xa, về gào khóc kể lể, thì người làng mới biết. Tay con trưởng, năm nay cũng đã hơn bảy mươi, đối xử với cụ chả ra gì. Tay này là cán bộ hưu trí, diện tiền khởi nghĩa. Lương cao, chiều nào cũng rung đùi làm một be rượu thịt. Còn ông bố, gần trăm tuổi, thì tay con bảo, già rồi, không nên ăn các thức khó tiêu, cho mỗi ngày một bìa đậu chấm muối và cốc nước nguội… Cụ Thư, nhiều hôm thèm rượu quá, uống trộm của con trai đôi chén rồi say. Lăn đùng ra nền nhà ngủ. Khốn khổ, khi người ta già đi, tửu lượng cũng thấp xuống, có hết mấy xu rượu đâu. Thế mà tay con trai nó xỉ vả là nát rượu. Cụ uất, ra sông…

 Hồi vợ đầu chú Thông lao xuống sông chết, tôi đang học đại học ở Hà Nội, không biết. Cuối tuần về xin tiếp tế, cũng chả thấy ai kể gì. Có lẽ mọi người cho là không có gì liên quan về cái sự chết của một người đàn bà trẻ với một thằng trai như tôi.

 Nhưng cũng có vụ chết ở kè đá làm rung động cả làng, cả vùng khá lâu. Hồi năm thứ ba, tôi ôn thi cuối kỳ, mấy tháng mới về nghỉ hè. Đến đầu làng, đã có người túm lấy thì thào, cô Hân với thằng Quý chết rồi, mày biết không?

 Sao lại chết?

Cô Hân nhận thằng Quý là con nuôi từ mươi năm nay.

Mà chết thế nào?

Hai người ấy tự trói tay, trói chân vào nhau rồi lăn từ kè đá xuống sông.

 
***

Nhà ông ngoại tôi có năm anh chị em.

Mẹ tôi là cả, dì Hương là út, giữa là ba cậu. Thế cho nên, tuy là dì cháu, nhưng dì Hương chỉ hơn tôi vài tuổi. Tôi và dì thân nhau. Hồi dì đi lấy chồng, thì tôi vừa ra trường, bị điều đi miền núi, khá xa. Ngày ấy đường sá xa xôi, phương tiện đi lại khó khăn, tôi không về được. Dì Hương gửi cho tôi một lá thư, y như là gửi chào bạn bè để đi lấy chồng vậy. Dì bảo, biết thân phận mình xấu xí kém cỏi, đành phải lấy ông chồng đã qua một đời vợ. Dì mong sau này, đẻ được một thằng con trai, nuôi dạy nó đi học đại học như Nam. Lấy đó làm niềm an ủi trong cuộc đời.

 Tôi đọc thư nhưng cũng chả để tâm. Vì hồi ấy tôi còn rất trẻ. Mà con gái vùng núi tôi ở rất xinh. Cô nào cô ấy, da trắng môi hồng, bộ ngực nở căng trong cái áo chàm lúc nào cũng chỉ chực bung khuy. Đẹp mê man.

 Ngày còn ở nhà, hoặc thời gian đang học ngoài Hà Nội, mỗi khi tôi về làng, những buổi tối, dì Hương thường đến nhà tôi chơi. Nhà ông ngoại tôi ở xóm ngõ Nón, còn nhà tôi ở xóm ngõ Ván, cùng làng. Hai dì cháu thường rì rầm trò chuyện đến khuya. Vừa chuyện vừa tẽ ngô hay bóc lạc. Những câu chuyện của dì cháu tôi cứ lan man hết chuyện nhà rồi lại sang chuyện trong làng ngoài xóm. Rồi cả những chuyện vớ vẩn ở trường ở lớp của tôi. Bây giờ, tôi cũng chả còn nhớ nổi là dì cháu tôi đã nói với nhau những gì trong cái u tịch thanh vắng của làng quê xưa. Không điện. Không ti vi. Không đài. Thỉnh thoảng, vài con ễnh ương oe óe gọi bạn tình trong đêm. Những con đom đóm bay lên lộn xuống theo một vũ điệu huyền hoặc ma quái, cả khoảng vườn trước nhà như có hội hoa đăng… Khuya, dì tôi rón rén cầm cái đèn dầu hỏa, tay bịt bớt dưới chỗ thông phong cho khỏi tắt, bảo tôi: “Cháu vào ngủ đi để mai còn ra trường sớm”. Tôi thường đứng nhìn cái bóng chập chờn của dì trên con đường làng tối đen như mực. Khi cái bóng ấy khuất vào đầu ngõ Nón, tôi mới quay vào nhà đi nằm. Không hiểu sao, rất nhiều năm sau, đi lang bạt kỳ hồ không biết bao nhiêu vùng đất. Mỗi khi thoáng nhớ đến dì Hương, tôi lại nhớ cái bóng người nhòe nhòe sáng sau lưng ngọn đèn dầu khi xưa.

Ông bà ngoại tôi đã mất từ lâu.

Ngày còn sống, ông tôi bảo, thằng này tuổi hổ, hay quên. Chỉ cần ra ngoài đường, gió thổi vào tai là quên bẵng mọi sự.

 Có lẽ thế thật.

Tôi ra trường, đi lang thang nhiều nơi. Chỗ thì do tổ chức điều động. Nhưng nhiều nơi, chỉ là do tôi có máu tò mò, muốn xem nơi ấy ra sao. Rồi khi lấy vợ và chuyển về thành phố, tôi vẫn không bỏ được cái tật thích đi lang thang thăm thú những nơi xa lạ, hoang vắng. Cái thú ấy, bây giờ bọn trẻ trên mạng nó gọi là phượt. Thế nhưng, tôi lại rất ít về quê. Xuân thu nhị kỳ, Tết đến đảo qua tí. Đến hồi có điện thoại di động thì tôi lại càng lười về. Cuối tuần, đang ngủ đêm mãi trên Mèo Vạc, gọi về cho bố mẹ vài câu. Hỏi thăm sức khỏe. Nói dạo này con công việc liên miên, không dứt ra được, rất bận. Chuyển ít tiền vào tài khoản ông anh cả biếu các cụ. Thế là đủ. Tôi rất yên tâm với vụ làm con của mình. Tôi là con út trong nhà.

Lúc còn ở làng, tôi với dì Hương thân nhau. Thế mà mấy chục năm ra trường, đi làm, lấy vợ sinh con lập nghiệp nơi thành thị. Tôi hầu như quên mất là mình còn có người dì nơi quê.

Hôm giữa tuần, dì Hương đột ngột gọi vào máy di động của tôi bằng số của anh cả: “Thứ bảy Nam về quê dì bảo cái này nhé, nhất thiết phải về đấy”.

Giọng dì ngàn ngạt trong máy.

Mà lại là lần đầu tiên dì gọi điện thoại cho tôi.

***

 Chú Thông, chồng dì Hương nhà ở xóm Ghen.

Sự thật là, tên xóm ấy có từ nghìn năm rồi, tôi không bịa ra được. Nhưng tôi thấy đàn ông đàn bà ở cái xóm ấy rất chi là hoa lá cành, mà cũng chả thấy ai ghen ai bao giờ. Mạnh Hoạt, là tay trai lơ nổi tiếng xóm đó. Đàn ngọt, hát quan họ hay thôi rồi. Hai bàn tay hắn có cả mười cái hoa tay, làm việc gì cũng khéo. Cứ ra khỏi nhà là có gái theo về. Thế mà vợ hắn coi như không. Có lần, hắn mang hai em về một lúc, ăn ở dưới nhà ngang. Còn hắn, vẫn ở với vợ nhà trên. Hàng ngày, hai gái ra đồng làm màu, chăm lúa. Vợ chồng hắn ở nhà rung đùi đàn ca sáo nhị. Thế mà chả hiểu làm sao, một hôm hai gái dắt nhau đi làm cỏ lúa ngoài cánh đồng đầu làng, lại nhảy vào cắn xé ghen tuông ầm ĩ. Vợ Hoạt ra, hai tay chống nạnh, bảo: “Rõ dơ. Vợ chả thèm ghen, mà mấy cái con đánh đĩ theo không, thì cứ cuồng lên với nhau vì con chim lơ. Cút đi cho yên nhà bà”. Hai gái ngượng, cắp nón đi thẳng.

Nhà chú Thông sát ngay nhà Mạnh Hoạt.

Chú là con trai duy nhất của một gia đình mấy đời nối nhau buôn bè. Thứ nhất buôn bè… Là dân làng nói về cái sự giàu có của gia đình ấy. Ngày trước, trên mạn ngược, rừng còn nhiều lâm sản. Cánh buôn bè dưới xuôi lên, thuê dân bản địa chặt gỗ, tre luồng, nứa ngộ… đóng thành bè trôi xuôi. Về đến kè đá, neo lại, dỡ ra bán dần cho thợ mộc, cho người dựng nhà quanh vùng. Lại còn cơ man nào là sản vật mộc nhĩ nấm hương sa nhân hồi quế. Cánh đi bè trong vùng còn thì thào với nhau, nhà ấy còn chơi cả món cơm đen. Nên nhà chú Thông rất giàu. Giàu ngấm giàu ngầm.

Năm chú Thông mười tám tuổi vẫn thấp bé như cái kẹo. Đã thế mặt mũi lại ngắn nhù, trông chả giống ai. Bố mẹ chú ấy tính cưới vợ cho con trai ngay, hy vọng đời cháu trông khá khẩm hơn. Hỏi chú Thông xem ưng đứa nào trong làng để cho người đến ướm. Chú bảo chỉ mê mỗi cô Bắc, con bà Tám ở xóm Đình đầu làng.

Không cứ chú Thông, trai cả làng đều mê cô Bắc.

Đàn ông quanh vùng hễ nhìn thấy cô Bắc buổi chiều, thì y như rằng, đêm hôm ấy về nằm quay lưng lại vợ mà thở dài một mình.

Nhà cô Bắc có một cái quán bán nước chè xanh nước vối và dăm món quà quê ở dưới gốc đa, cạnh đình làng. Cô Bắc chỉ học hết cấp hai rồi ở nhà phụ bà Tám bán hàng, làm đồng.

Quán nhà cô ấy rất đông. Nhiều nhất là đám trai chưa vợ trong làng, suốt ngày dặt dẹo lê la đầu đình, gốc đa. Chỉ mong được nhìn thấy cô cười một cái. Cô cười rất xinh. Đôi môi quả tim, đỏ hồng như bông bích đào. Mỗi khi cô nhoẻn miệng cười, hàm răng trắng đều tăm tắp sáng lấp lánh.

Chú Thông chưa bao giờ dám ra quán cô ngồi. Chú chỉ đi loanh quanh ở phía đằng xa, ngắm trộm. Rồi chú về nhà, trùm chăn kín đầu, tưởng tượng ra những cái hay ho của cô Bắc.

Khi mà một bà trong họ, được mẹ chú Thông cậy nhờ, đến ướm lời với bà Tám, muốn xin cô Bắc về làm dâu thì bà Tám cười váng góc làng. Bà ấy bảo, lấy con nhà tôi làm dâu, không dễ mà cũng không khó. Con tôi chim sa cá lặn, cả vùng này không đứa nào đẹp như nó. Bà về nói với nhà ấy, cứ chọn ngày lành, biện đủ lễ vật: năm trăm lá trầu, năm trăm quả cau, năm mươi lít rượu, năm con gà trống làng Hồ, năm con lợn tạ. Một cái kiềng vàng năm chỉ và, tiền mặt năm trăm đồng không thiếu một xu, đưa đến đây. Tôi cho đón dâu ngay tút xuýt.

Lệ cưới xin làng tôi, bao giờ nhà gái cũng thách cưới khá. Xưa, nhiều đôi âm thầm yêu nhau, nhưng chỉ vì thách cưới quá nặng mà chịu chết không được ở với nhau. Nhưng thách cưới nhiều như bà Tám, xưa nay chưa từng có. Chắc bà ấy chủ định thách cao, để cho mẹ chú Thông tiếc tiền, bỏ cuộc.

Hồi ấy, năm trăm đồng là cả một tài sản kinh hoàng. Chỉ có sáu mươi đồng là mua được một chỉ vàng. Mà nổi tiếng đảm đang buôn bán giỏi như con gái làng tôi, cuối năm cô nào mua được cái nhẫn một chỉ đeo vào ngón tay chơi tết là kinh lắm, tiếng đồn giỏi giang ran khắp hàng huyện.

Mẹ chú Thông bảo, kể cả phải bán hết gia sản, tôi cũng quyết cưới con Bắc về làm dâu nhà này.

 Hôm nhà trai dẫn lễ rồi xin đón dâu ngay, bà Tám ngồi đần mặt ra mất một lúc, rồi lại tươi cười như không. Bà ấy bảo, nhà này xưa nay trọng chữ tín, người lớn đã nói với nhau một là một, hai là hai, không thể thay đổi.

Nhưng làng xóm nói, bà ấy tham tiền, đem bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu.

Cũng lạ, cô Bắc về làm dâu nhà ấy không khóc lóc, oán thán hay vật vã đau khổ gì. Những người đi dự đám cưới về chỉ bảo thấy mặt nó bình thường, không ra buồn, cũng không ra vui.

 Từ ấy, người ta gọi cô Bắc là cô năm trăm.

 Cô ấy cũng không nói gì. Cô rất hiền.

Mạnh Hoạt là hàng xóm, sang chủ hôn, hát hò ầm ĩ cả buổi chiều.

Tối, trời đổ mưa to, mưa dai dẳng. Ngồi nhìn mưa nước chảy tràn sân, Mạnh Hoạt buồn tình, lấy đàn ra bập bùng, rồi soạn một bài hát rất lạ. Không ra quan họ, cũng chẳng phải nhạc mới. Nghe thê lương:

 Trời mưa bong bóng phập phồng

 Em về nhà chồng anh thấy tim đau…

 Cô Bắc về làm dâu nhà ấy đúng năm năm.

Một buổi sáng, cũng mùa nước lũ đang dâng. Cô ấy ra kè đá.

Mới đầu cô rửa chân. Cô vo cao quần lên khỏi gối. Bắp chân thon thả, trắng nõn như ngó sen. Mấy tay trai làng đang ngồi câu cá gần đấy, mặt cứ thộn ra. Rồi cô khoát nước sông rửa mặt, mà rửa rất lâu, đến nỗi mặt ửng lên hồng rực. Cô từ từ lội xuống, bất ngờ nhao mình ra giữa dòng nước đỏ bầm đang sủi bọt, cuồn cuộn chảy… Khi mấy tay trai ngồi câu kịp hiểu ra chuyện gì thì cô Bắc đã mất tăm tích. Nước sông đang lên mà lao ra dòng xiết, chỉ có giời cứu. Năm ngày sau, xác cô ấy mới nổi lên dưới Lục Đầu.

 
***

Thứ bảy, tôi về quê.

Lòng hoang mang. Không hiểu có chuyện gì mà dì Hương lại nhắn tôi khẩn thiết vậy.

Tám giờ tối, vừa ăn cơm xong thì thấy dì đến. Hơn hai chục năm trôi qua, dì tôi đã bốn mươi chín tuổi rồi. Còn tôi, cũng đang giữa thời tứ thập nhi bất hoặc. Và cũng đã lâu, dì cháu chả gặp nhau. Nhưng hình như tình máu mủ ruột rà nó có một sự giao cảm phi lý nào đó. Nhìn thấy người dì đang bắt đầu chu kỳ già nua khô héo của cuộc đời bước vào nhà, tôi thấy hình như không tồn tại cái khoảng thời gian mênh mông giữa tôi và dì. Trong lòng tôi bỗng trào lên cái cảm giác xót xa. Sểnh mẹ bú dì…

 Hai dì cháu kéo ghế ra sân ngồi nói chuyện, rì rầm, như xưa.

(Số sau đăng hết)

    Nổi bật
        Mới nhất
        Chuyện bên kè đá (Phần 1)<br><i>Truyện ngắn của</i> Trần Thanh Cảnh
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO