Chuỗi hạt bồ đề và văn hóa Phật giáo Việt Nam

ĐBQH, Hòa thượng Thích Chơn Thiện 26/04/2010 00:00

Chuỗi hạt bồ đề không chỉ là vật bất ly thân của một tu sỹ Phật giáo Việt Nam, mà còn là vật bất ly thân của văn hóa Việt Nam chừng nào nỗi khổ đau ở đời chưa vơi cạn. Lần hạt là vượt qua sông mê biển ái thoát nỗi thống khổ trầm luân sinh diệt.

04-Chuoi-hat-11610-300A1.jpg

Dẫn nhập

Các nhà sư Việt Nam và các cư sỹ Việt Nam thường có chuỗi hạt bồ đề ở vòng cổ, vòng tay, và thường lần hạt trong các thời công phu của họ. Tập quán này đã có từ lâu xa ở Việt Nam, vốn bắt nguồn từ tông phái Tịnh độ (Pure Land Sect) thờ Bồ tát Phổ Hiền làm sơ tổ, được khai lập từ Trung Quốc phổ biến từ đời Tấn, Ngụy, Đường, rồi truyền qua Việt Nam, Nhật Bản. Tông phái này dựa vào giáo lý kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà – một vị sư ấËn dịch kinh Vô Lượng Thọ từ thế kỷ thứ II Tây lịch; pháp sư Cưu Ma La Thập dịch kinh A Di Đà vào thế kỷ thứ IV Tây lịch.

Trước mỗi lần lần hạt, Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam thường đọc bài kệ:

“Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di – Đà.”
(Sông ái nghìn sóng xao
Biển khổ vạn ba đào
Muốn thoát khổ trầm luân
Gấp gấp niệm Di – Đà.)

Vậy lần hạt là vượt qua sông mê biển ái thoát nỗi thống khổ trầm luân sinh diệt. Vượt qua được là ái diệt, chân lý thứ ba trong Tứ Thánh Đế, bài pháp đầu tiên mà đức Thích Tôn đã thuyết giảng tại vườn Lộc Uyển (Varanàsi: - Ba La Nại) cho năm người anh em tôn giả Kiều Trần Như, năm người vốn đồng tu khổ hạnh với đức Phật.

04-Chuoi-hat-11610-300A2.jpg

Cụ thể ý nghĩa của 18 hạt bồ đề, 36 hạt bồ đề, và 108 hạt bồ đề (của xâu chuỗi nhỏ và xâu chuỗi lớn) là gì?

18 dòng ái, 36 dòng ái và 108 dòng ái

Tăng Chi Bộ Kinh, tập II (PTS, London, 1989, p.1-2) ghi:

Thế nào là 18 tư duy bị ám ảnh bởi ái liên hệ đến nội tâm? Này các Tỷ kheo, khi nào có tư tưởng ‘ta có mặt’ thì sẽ có những tư tưởng ‘ta có mặt trong đời này’, ‘ta có mặt như vậy’, ‘ta có mặt khác như vậy’, ‘ta không thường hằng’, ‘ta thường hằng’; ‘ta phải có mặt không?’, ‘ta phải có mặt trên đời này’, ‘ta phải có mặt như vậy’, ‘ta phải có mặt khác như vậy’; ‘mong rằng ta có mặt’, ‘mong rằng ta có mặt trên đời này’, ‘mong rằng ta có mặt như vậy’, ‘mong rằng ta có mặt khác như vậy’; ‘ta sẽ có mặt’, ‘ta sẽ có mặt trên đời này’, ‘ta sẽ có mặt như vậy’, ‘ta sẽ có mặt khác như vậy’.

Và này các Tỷ kheo, thế nào là 18 tư duy bị ám ảnh bởi ái liên hệ đến ngoại cảnh?

Khi nào có tư tưởng  ‘do cái này, ta có mặt’, thì sẽ có các tư tưởng: ‘do cái này, ta có mặt trên đời này’… (tương tự như trên).”

Tư duy hữu ngã, tư duy chuyên chở ý niệm về ‘tôi’, quấn chặt vào lòng khát ái (dục ái, hữu ái, vô hữu ái) và mở ra 18 dòng ái liên hệ đến nội tâm, và 18 dòng ái liên hệ đến ngoại cảnh.

Quá khứ có 36 dòng ái, hiện tại có 36 dòng ái, và vị lai cũng có 36 dòng ái, tất cả là 108 dòng ái buộc chặt lấy tâm thức con người với vô vàn trói buộc, khổ sầu, bi lụy, theo dòng chảy Duyên khởi của vạn hữu (do ái mà có thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não). Đây là sự thật mà đức Phật Thích Ca đã giác ngộ dưới cội Bồ đề hơn 26 thế kỷ qua và đã giới thiệu với đời đạo Phật, tôn giáo của toàn cầu. Lần hạt, thực chất là tự nhắc nhở mình về sự trói buộc của 36 dòng ái ấy, là hạ quyết tâm làm chủ tâm thức đi ra khỏi sự ràng buộc ấy, là hưng khởi sự giác tỉnh rằng: trọn gói vô minh, ái, thủ là từ tư tưởng về sự có mặt của cái tôi rất gần gũi mà rất phiền não ấy: Cái tôi và sự chấp chặt cái tôi, sự ái luyến cái tôi là cội nguồn của mọi rối rắm, bí ẩn ở đời này. Tại đây, chuỗi hạt bồ đề hiện ra như là sứ giả đem lại an bình cho nội tâm và ngoại giới, phải chăng?

04-Chuoi-hat-11610-300A3.jpg

Chuỗi hạt bồ đề và văn hóa

Văn hóa cổ đại xưa nhất của nhân loại, theo tài liệu lịch sử có thể ghi nhận được, là văn hóa ấn Độ từ thế kỷ thứ XVI, XV trước Tây lịch kỷ nguyên. Nền văn hóa này hợp nhất từ hai dòng chảy: một của nhóm cộng đồng Dravidian (từ vùng ấËn Hà), định cư, tụng ca các thần sông, thần nước, thần cây, thần bò...; một của dân di trú Aryan (xâm lược), từ thế kỷ thứ XVI đến XIII trước Tây lịch, tụng ca thiên nhiên với nhiều tư tưởng về mãnh lực của thiên nhiên. Bấy giờ tư tưởng vẫn chưa phân đôi rạch ròi giữa con người và vũ trụ. Dần dần triết lý phát triển hướng vào trọng tâm “cái tôi”, hướng sâu vào nhị nguyên (Dualism) của thời kỳ Upanisha, hay hậu Veda (Vệ đà): tư duy trở nên “logic” hơn, minh biệt hơn – đầu nguồn chớm nở của các tư duy khoa học – đi vào tìm hiểu ngọn nguồn của con người vật lý, sinh lý, tâm lý; cái tôi ngày càng được tô đậm, và chỗ đứng của “đấng sáng thế” được tạo dựng vững chắc trong niềm tin hữu ngã của nhân loại kéo dài mãi tận đến bây giờ. Nền văn hóa đó gọi là nền văn hóa hữu ngã, hay nền văn hóa của “cái tôi”, sáng tạo phẩm của tư duy nhị nguyên – tư duy nhị nguyên chỉ vận hành được nếu chấp nhận (mà không còn là giả định nữa) hẳn nhiên rằng: mỗi hiện hữu có “cái tôi” của nó (có tự ngã bất biến) – để con người có thể diễn đạt, đối thoại, truyền đạt.

Phật giáo, đứng riêng rẽ một mình, phát hiện rằng ý niệm về một cái tôi hiện hữu là vô minh dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não cho thế gian, như lời dạy của đức Phật trích dẫn ở trên. Phát hiện này mở ra một dòng văn hóa Phật giáo chan hòa vào thực tại, đã đến và được chấp nhận, ở Việt Nam từ thế kỷ I, II Tây lịch, và phát triển mạnh từ thời kỳ Tiền Lê, qua thời Lý, thời Trần (400 năm), luôn nhấn mạnh việc giải phóng con người ra khỏi mọi nỗi khổ đau để sống an lạc, hạnh phúc trong từng cảm nhận. Theo đó, dòng đời là dòng biện chứng trôi chảy, khác đi trong từng sát na (mỗi sát – na theo tâm lý học Phật giáo Theravada là 1/16 của giây), càng chấp chặt cái tôi bất biến thì càng rối rắm – cả tư duy và xã hội – càng vị kỷ, và càng bốc cháy các dục vọng, các tâm lý tham lam, hận thù, si mê, ganh ghét, đố kỵ..., mà càng chuốc lấy phiền não, sầu bi. Theo đó, tâm lý sẽ phát triển tình người, tình yêu thiên nhiên, lòng vị tha, vô ngã và vô úy đem đến cho đời sự thanh bình nội tâm và ngoại cảnh.

Chuỗi hạt bồ đề, vì thế là một biểu tượng của văn hóa Phật giáo, là di sản văn hóa mà nhân loại (một số đông) đang tụng ca và Liên Hiệp Quốc năm 1999 đã tụng ca. Nó không phải chỉ là vật bất ly thân của một tu sỹ Phật giáo Việt Nam, mà còn là vật bất ly thân của văn hóa Việt Nam chừng nào nỗi khổ đau ở đời chưa vơi cạn.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Chuỗi hạt bồ đề và văn hóa Phật giáo Việt Nam
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO