Sửa đổi Luật để bắt kịp sự vận động của xã hội, thế giới
Các đại biểu Quốc hội tại Tổ 13 cơ bản nhất trí sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với những lý do được nêu tại Tờ trình số 119/TTr-CP của Chính phủ. Đồng thời cho rằng, việc sửa đổi toàn diện Luật Di sản văn hoá trong bối cảnh hiện nay là cơ hội để tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, khắc phục những khó khăn, vướng mắc, giải quyết các vấn đề phát sinh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Theo ĐBQH Nguyễn Thị Hà (Bắc Ninh), sau hơn 20 năm được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung, Luật Di sản văn hoá đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đáng khích lệ hôm nay. Tuy nhiên, trước sự phát triển không ngừng của xã hội, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thực tiễn đặt ra những vấn đề cấp bách cần nhìn nhận, đánh giá lại để có thể bắt kịp sự vận động của xã hội, thế giới. Việc nghiên cứu, sửa đổi Luật Di sản văn hoá là vô cùng cần thiết nhằm bảo đảm quy định pháp luật hài hòa với thực tiễn, với sự phát triển xã hội, thế giới.
Tại Điều 13 dự thảo Luật quy định chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể như sau: “Ngoài các chính sách quy định tại khoản 1 Điều này, căn cứ theo tình hình thực tiễn, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành chế độ đãi ngộ riêng của địa phương”.
Theo đại biểu Nguyễn Thị Hà, việc phân cấp, phân quyền nêu trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương xây dựng và ban hành chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân, chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính công bằng và bảo đảm quyền lợi cho đối tượng hưởng thụ, đại biểu đề nghị quy định rõ 2 nhóm đối tượng và mức hỗ trợ đối với nghệ nhân là người đang hưởng lương và người không có lương.
"Đồng thời, cần có một điều khoản quy định rõ về đối tượng, tiêu chí, nội dung, định mức chi tối thiểu (mức sàn) về chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân, chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể. Đây là cơ sở tham chiếu để HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành Nghị quyết về nội dung này", đại biểu Nguyễn Thị Hà nói.
Cùng với đó, đại biểu cũng đề nghị cân nhắc không quy định nội dung trong dự thảo Luật nội dung tại Khoản 1 Điều 4 “Nhà nước đại diện chủ sở hữu di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu khác bao gồm sở hữu chung, sở hữu riêng về di sản văn hóa theo quy định của Hiến pháp, Luật Di sản văn hóa và pháp luật liên quan về sở hữu”. Lý do là bởi quy định này chưa thống nhất với quy định tại Bộ luật Dân sự về đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (Điều 197), theo đó việc xác lập sở hữu toàn dân, quyền sở hữu di sản văn hóa nếu là tài sản thuộc sở hữu toàn dân thì thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự.
Cần có chính sách hỗ trợ triển khai mô hình công viên địa chất toàn cầu
Nêu quan điểm về một số vấn đề cụ thể, ĐBQH Lưu Bá Mạc (Lạng Sơn) đề nghị cân nhắc bổ sung thêm quy định có liên quan đến việc quản lý, phát triển, bảo vệ và phát huy giá trị của mô hình công viên địa chất, nhất là những công viên địa chất trong nước đã và đang được UNESCO công nhận hoặc xem xét công nhận là công viên địa chất toàn cầu. Trong đó đều có liên quan đến Di sản văn hoá phi vật thể, Di sản văn hoá vật thể, Di tích lịch sử - văn hoá, Di sản địa chất, Danh lam thắng cảnh. Từ đó góp phần thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.
Lý do, theo đại biểu Lưu Bá Mạc là, năm 2014, Đề án "Bảo tồn di sản địa chất, phát triển và quản lý mạng lưới công viên địa chất ở Việt Nam, tầm nhìn đến năm 2030", đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1590/QĐ-TTg. Trong đó, bao gồm một số nhiệm vụ như: Hoàn thiện thể chế, chính sách về bảo tồn, sử dụng hợp lý di sản địa chất và công viên địa chất ở Việt Nam; Triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học về bảo tồn di sản địa chất và phát triển, quản lý công viên địa chất.
"Hiện nay, Việt Nam đã có 3 công viên địa chất toàn cầu UNESCO. Đồng thời, đã có một số địa phương, trong đó bao gồm tỉnh Lạng Sơn, cũng đã và đang trong quá trình xây dựng, phát triển công viên địa chất toàn cầu. Tuy nhiên, đến nay chưa có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, cũng như chưa cơ chế, chính sách hỗ trợ cho việc triển khai mô hình công viên địa chất toàn cầu UNESCO".
Do vậy, đại biểu Lưu Bá Mạc cho rằng, việc nghiên cứu, bổ sung quy định có liên quan đến thể chế, chính sách liên quan đến công viên địa chất, mạng lưới công viên địa chất ở Việt Nam, góp phần phát triển du lịch bền vững là hết sức cần thiết.
Về Khu vực bảo vệ di tích, nguyên tắc xác định phạm vi và cắm mốc giới các khu vực bảo vệ di tích, các đại biểu đề nghị cân nhắc bổ sung thêm cụm từ “hoặc trong hồ sơ quy hoạch di tích được cấp có thẩm quyền phê duyệt” vào nội dung tại khoản 4 Điều 25, sửa thành: “4. Khu vực bảo vệ di tích quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định trên bản đồ địa chính, trong biên bản khoanh vùng bảo vệ của hồ sơ khoa học xếp hạng di tích hoặc trong hồ sơ quy hoạch di tích được cấp có thẩm quyền phê duyệt và phải được cắm mốc giới trên thực địa.”
Đồng thời, tại khoản 5, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung nội dung: Chủ tịch UBND tỉnh có thể phân cấp, ủy quyền cho cơ quan chuyên môn là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện thực hiện việc cắm mốc giới. Tại điểm b khoản 5, đề nghị cân nhắc bổ sung làm rõ thêm về hình dáng, màu sắc, kích thước chất liệu cột mốc đề nghị quy định việc thực hiện theo pháp luật về xây dựng.