Chính sách tiền tệ quốc gia phải do QH quyết định
Sáng nay, 21.5, QH thảo luận ở Hội trường về dự án Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sửa đổi). Sau kỳ họp thứ Sáu, dự án Luật Ngân hàng Nhà nước (sửa đổi) tiếp tục được hoàn thiện. Tuy nhiên, đến nay, vẫn còn một số ý kiến về thẩm quyền định chính sách tiền tệ quốc gia; lãi suất và thẩm quyền sử dụng Quỹ dự trữ ngoại hối...
ĐBQH Trần Du Lịch (TP Hồ Chí Minh): QH quyết định cái lớn nhất
QH quyết định cái lớn nhất đó là chính sách tiền tệ quốc gia, đó là quyết định chỉ số tăng giá hay lạm phát thông qua chỉ số tăng giá. Bởi vì cái này nó phải chi phối bao trùm các chính sách tiền tệ, kể cả chính sách tài khóa để bảo đảm thực tế.
Về lãi suất ở Điều 12, đây là vấn đề có nhiều tranh luận. Trước hết tôi đồng tình là chúng ta hướng tới điều tiết lãi suất trong điều kiện bình thường thì phải điều tiết theo quan hệ thị trường, quan hệ cung cầu. Trên thực tế hai năm qua chúng ta sử dụng lãi suất trong điều kiện không bình thường, tức là quy định tại Khoản 2, Điều 12. Không thể lấy điều không bình thường để chế định một điều bình thường trong tương lai. Lãi suất lên, xuống của thị trường tiền tệ là tùy thuộc vai trò của Ngân hàng Nhà nước Trung ương trong vấn đề thực hiện nhiệm vụ của nghiệp vụ thị trường mở. Anh tăng tổng cung tiền hay giảm tổng cung tiền, tăng dư nợ tín dụng hay giảm dư nợ tín dụng thì nó sẽ điều chỉnh… Như vậy thực tế Việt Nam cho thấy không thể điều khiển một thị trường tiền tệ bằng biện pháp hành chính. Tuy nhiên, trong điều kiện bất thường phải dùng biện pháp hành chính như Khoản 2 là đúng. Như vậy luật hướng tới điều bình thường và quy định điều cá biệt để Nhà nước có thể điều chỉnh. Như vậy Khoản 1 và Khoản 2 là đúng.
Với lãi suất cơ bản, thực chất, bản chất nó là gì? Trên thế giới người ta sử dụng lãi suất cơ bản với nghĩa đó là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước Trung ương đưa ra để đối thoại với thị trường, cho các ngân hàng thương mại định hướng đi theo. Nếu anh đưa ra một loại lãi suất mà thị trường không theo, giống như cha mẹ ra lệnh mà con không nghe thì xem lại 2 việc: hoặc là con hư hay tại cha mẹ đưa ra điều quá vô lý.
ĐBQH Đinh Xuân Thảo (Kiên Giang): Nội hàm của chính sách tiền tệ quốc gia phải đưa vào trong luật
Vấn đề chính sách tiền tệ, nội hàm của chính sách tiền tệ quốc gia phải đưa vào trong luật này. Bởi vì Hiếp pháp quy định QH có thẩm quyền quyết định về chính sách, tài chính tiền tệ quốc gia, nhưng mà nội hàm của chính sách tiền tệ quốc gia như thế nào lại cũng chưa được thể hiện ở một văn bản pháp luật thấp hơn. Vì vậy lần này, vấn đề này đã đưa vào tại Điều 3 dự án Luật là phù hợp. Việc phân thẩm quyền của QH, Chủ tịch Nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng như thế này là hợp lý.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước tôi cơ bản đồng tình, đặc biệt là việc xử lý ở Khoản 14, Điều 4 về thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi.
Đối với tạm ứng cho ngân sách Nhà nước và thẩm quyền đối với dự trữ ngoại hối tại Điều 32, tôi thấy quy định như ở Khoản 3 là phù hợp.
ĐBQH Cao Sĩ Kiêm (Thái Bình): Phải có vai trò của Ngân hàng Nhà nước
Tôi tán thành 18 điểm đã được UBTVQH giải trình, tiếp thu và chỉnh sửa, nó thể hiện rõ hơn hướng chỉ đạo và quan điểm chỉ đạo trong khi sửa luật; bảo đảm tính kế thừa và lộ trình hội nhập mà chúng ta cam kết và từng bước giải quyết các vấn đề ách tắc trong luật hiện hành.
Đối với vấn đề lãi suất cơ bản, hiện nay còn 2 ý kiến khác nhau là có hay không có việc ghi lãi suất cơ bản vào trong luật này. Các quốc gia cũng như nước ta sử dụng lãi suất cơ bản đều phải thể hiện 2 nội dung. Một, đây là lãi suất thỏa thuận của Ngân hàng thương mại với khách hàng trong quá trình kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và lãi suất này được hình thành bởi cung cầu vốn và hoạt động bình thường của 4 - 5 ngân hàng tất nhiên trình độ khác nhau, nhưng là mức trung bình hình thành lãi suất đó và có tham khảo lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu của Ngân hàng Trung ương. Thứ hai là lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố trên cơ sở căn cứ vào lãi suất hình thành của các Ngân hàng thương mại và các hoạt động của thị trường liên ngân hàng để Ngân hàng Nhà nước công bố một mức lãi suất. Mức lãi suất này không phải là mức bắt buộc tất cả các ngân hàng, tổ chức tín dụng phải tuân theo mà là mức để Ngân hàng Trung ương thông qua đây điều hành chính sách tiền tệ của mình, phục vụ cho việc kiểm soát, cạnh tranh lành mạnh trong thị trường vốn và các tổ chức tín dụng, trong đó cũng có phần để ngăn chặn, giải quyết vấn đề cho vay nặng lãi.
Bình thường, những năm trước đây Ngân hàng Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động lãi suất của các Ngân hàng thương mại, nhưng trong trường hợp bất bình thường, có những biểu hiện không lành mạnh trong hoạt động thị trường tiền tệ thì Ngân hàng Nhà nước phải có sự can thiệp vào thị trường tiền tệ thông qua lãi suất chỉ đạo để các Ngân hàng thương mại căn cứ vào đây thực hiện nhiệm vụ của mình. Khoản 1, Điều 12 có ghi: Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ. Phải hiểu lãi suất khác ở đây có lãi suất cơ bản. Còn nếu lờ mờ, không rõ ràng thì có thể ghi thêm một câu đằng sau: lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản, nhưng hiểu lãi suất cơ bản và điều hành lãi suất cơ bản phải đúng tinh thần và thực hiện nội dung như vừa phân tích ở trên thì mới đúng là lãi suất cơ bản. Điểm thứ hai của Điều 12 nên giữ nguyên để xử lý những vấn đề đột xuất khi thị trường có bất bình thường mà Ngân hàng Nhà nước phải can thiệp để giữ vững vai trò quản lý và điều tiết của mình. Những vấn đề này nếu được thực hiện sẽ bảo đảm được tính ổn định của luật và phù hợp với thông lệ quốc tế và theo nguyên tắc hoạt động của thị trường. Hai là vừa có điều kiện để giải quyết tình thế, giải quyết vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong điều kiện thị trường tiền tệ bất ổn như những năm vừa qua và cũng không xung đột, không phải sửa đổi nhiều các luật khác đang thi hành.
ĐBQH Trần Thị Dung (Điện Biên): Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý hay tổ chức kinh tế?
Tại Điều 2, quy định về vị trí và chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Khoản 1 của dự án luật quy định Ngân hàng Nhà nước như một cơ quan quản lý, nhưng tại Khoản 2 thì quy định như một tổ chức kinh tế. Như vậy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý hay tổ chức kinh tế cần được làm rõ. Tại Chương II, Điều 7 quy định về tổ chức Ngân hàng Nhà nước, cả 5 khoản của Điều 7 vẫn không thể hiện được hệ thống của tổ chức Ngân hàng Nhà nước, quy định như dư án luật chỉ dừng lại quy định về thẩm quyền, tức là phân cấp, thành lập các tổ chức trực thuộc Ngân hàng Nhà nước mà thôi. Đề nghị cần quy định đúng với tổ chức của Ngân hàng Nhà nước là như thế nào và bao gồm những gì, nhất là hệ thống tổ chức của Ngân hàng Nhà nước là cần phải được quy định một cách cụ thể trong luật này.
ĐBQH Trần Đình Long (Đăk Đăk): Định hướng tự do lãi suất tín dụng là không có cơ sở
Tôi thấy việc quy định chính sách tiền tệ tại Khoản 3, Điều 3 về thẩm quyền quyết định phê duyệt các điều ước quốc tế có liên quan đến tiền tệ đúng, nhưng chưa đủ. Trong trường hợp các điều ước quốc tế đó trái với pháp luật trong nước cũng như những vấn đề tiền tệ liên quan quan trọng đối với quốc gia thì phải là QH phê chuẩn điều ước.
Vấn đề thứ hai về lãi suất, tôi cho rằng định hướng về tự do lãi suất tín dụng ở Việt Nam là không có cơ sở, bởi vì đối với các nước phát triển đã thực hiện việc này hàng trăm năm qua và có những ngân hàng có tuổi đời trên hàng trăm năm mà trong những năm qua cũng có ngân hàng phải phá sản bởi những quy định trước hết là căn cứ để tự do hóa về lãi suất đó là chế độ công hữu, tư hữu nói chung và tư hữu về tiền tệ ngân hàng nói riêng; hai là thị trường vốn, năng lực cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng trong nước cũng như là các tổ chức Ngân hàng của nước ngoài hoạt động tại Việt Nam là không đồng đều và sức cạnh tranh không ngang nhau; ba là sự tồn tại của một khu vực tài chính ngân hàng với tư cách là một chủ thể độc lập với Nhà nước kể cả về tổ chức bộ máy và chính sách tiền tệ. Căn cứ vào ba yếu tố này, tôi thấy không đủ để Việt Nam chúng ta tự do hóa lãi suất ngân hàng, chưa kể những vấn đề liên quan đến vấn đề quản lý Nhà nước đối với lãi suất ngân hàng mà pháp luật hiện nay đang quy định.
Về dự trữ ngoại hối ở Điều 32, tôi thấy quy định dự trữ ngoại hối chưa rõ. Tôi đề nghị phải làm rõ nguồn hình thành ngoại hối từ đâu, có như vậy mới xét được việc sử dụng như thế nào.