Tạo điều kiện tốt nhất để nhà giáo thực hiện nhiệm vụ
Bày tỏ sự đồng tình, nhất trí với sự cần thiết ban hành Luật Nhà giáo, các đại biểu Quốc hội tại Tổ 13 gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Hậu Giang, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Đắk Lắk ghi nhận, dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp này đã bám sát 5 chính sách được thông qua khi lập đề nghị xây dựng Luật, gồm: định danh nhà giáo; tiêu chuẩn và chức danh nhà giáo; tuyển dụng, sử dụng và chế độ làm việc của nhà giáo; đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ và tôn vinh nhà giáo; quản lý nhà nước về nhà giáo.
ĐBQH Phạm Trọng Nghĩa (Lạng Sơn) đánh giá cao việc dự thảo Luật so với các bản dự thảo trước đây đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng ngắn gọn, khúc chiết, chặt chẽ hơn. Cơ cấu, bố cục của dự thảo Luật được xây dựng có nhiều điểm tương tự với Luật Viên chức, trong đó nhiều quy định viện dẫn theo hướng: quy định này thực hiện theo Luật Viên chức hoặc theo Bộ Luật lao động để phù hợp với từng khu vực công hoặc khu vực tư và bổ sung một số nội dung mang tính đặc thù.
Kỳ vọng, việc Quốc hội ban hành Luật Nhà giáo sẽ nâng cao vai trò, vị trí của Nhà giáo, tạo điều kiện tốt nhất để nhà giáo thực hiện nhiệm vụ của mình, ĐBQH Chu Thị Hồng Thái (Lạng Sơn) cũng ghi nhận, dự thảo Luật trình Quốc hội lần này có nhiều ưu điểm và giá trị nhân văn như: định hướng phát triển nghề nghiệp, chính sách tiền lương và đãi ngộ, chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng…
Đại biểu đánh giá cao việc chỉ trong hơn 1 tháng, Chính phủ đã trình ba lần hồ sơ dự án Luật, kèm 3 dự thảo Nghị định và dự thảo 13 Thông tư. "Cơ quan soạn thảo đã tiếp thu, chỉnh sửa bổ sung dự thảo Luật rất khẩn trương, nghiêm túc, dự thảo Luật sau mỗi lần sửa đổi, bổ sung thì đều có sự thay đổi căn bản so với lần trước".
Tuy nhiên, khi nghiên cứu hồ sơ với 3 dự thảo Nghị định và 13 thông tư để hướng dẫn thi hành Luật Nhà giáo, đại biểu Chu Thị Hồng Thái nhận thấy, "quá nhiều, như là một rừng nghị định, thông tư. Vậy khi áp dụng trên thực tế thì phải nghiên cứu rất nhiều văn bản, áp dụng quy định này phải tìm nghị định, thông tư này, áp dụng quy định khác thì phải tìm nghị định, thông tư khác rất mất thời gian". Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu tích hợp các nội dung như chế độ làm việc của giáo viên, giảng viên, quy định chuẩn nghề nghiệp để khi triển khai trên thực tế được nhanh chóng, thuận lợi trong tra cứu.
Theo đại biểu Phạm Trọng Nghĩa, đây là dự án Luật khó, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật nhìn chung rất rộng, bao gồm cả nhà giáo trong khu vực công và khu vực tư, với nhiều nhóm đối tượng khác nhau, như: nhà giáo của tất cả các cấp học, bậc học và lĩnh vực giáo dục khác nhau; nhà giáo trong các trường dạy nghề; nhà giáo trong các trường của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; nhà giáo trong các trường của lực lượng vũ trang nhân dân; người nước ngoài tham gia giảng dạy tại Việt Nam…
Trong đó, khu vực công lập thực hiện cơ chế theo Luật Viên chức và luôn có quan hệ liên thông với Luật Cán bộ, công chức, với các cơ quan của Đảng và Nhà nước, với người sử dụng là các cơ quan, tổ chức Nhà nước; trong khu vực ngoài công lập thực hiện cơ chế theo Bộ luật Lao động và chịu sự tác động, ảnh hưởng của các quy luật của cơ chế thị trường như cung cầu, giá cả, thuê mướn…, với người sử dụng là các nhà đầu tư vốn, tổ chức thành lập và nhà quản lý, điều hành các cơ sở giáo dục, đào tạo này.
Hiện nay đang có 6 luật trực tiếp quy định các chế tài quản lý nhà giáo, gồm Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Giáo dục đại học. Do đó, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa đề nghị rà soát để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa cũng nêu rõ, việc định danh nhà giáo chính xác, đầy đủ, cụ thể có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phạm vi, đối tượng áp dụng của dự thảo Luật này.
Quy định về đối tượng áp dụng tại khoản 1 Điều 2 có nêu: “Nhà giáo được tuyển dụng, làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”. Quy định này vừa bao hàm đối tượng áp dụng, vừa lý giải khái niệm.
Tuy nhiên, nhìn vào bố cục của dự thảo Luật khi các khái niệm đều được điều chỉnh tập trung tại phần giải thích từ ngữ (Điều 4), đại biểu cho rằng, việc quy định như trên cần được cân nhắc để bảo đảm tính hợp lý; đồng thời đề nghị giải thích khái niệm Nhà giáo để xác định rõ địa vị pháp lý trong Luật.
Khó bảo đảm công bằng giữa nhà giáo khu vực công và khu vực tư
Chính sách thu hút nhà giáo (Điều 29) nhận được sự quan tâm của nhiều đại biểu Quốc hội. Cụ thể, Khoản 1 Điều 29 dự thảo Luật quy định đối tượng hưởng chính sách thu hút như sau: “a) Người có trình độ cao, người có tài năng, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ, người có năng khiếu đặc biệt tham gia tuyển dụng làm nhà giáo; b) Nhà giáo công tác ở nơi đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo”. Khoản 2, khoản 3 Điều 29 cũng nêu các chính sách các đối tượng trên được hưởng.
Về cơ bản, các chính sách thu hút nhà giáo là cần thiết. Tuy nhiên, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa chỉ rõ, nội dung tại Điều 29 còn chung chung, chưa có đột phá để tạo sức hấp dẫn, chưa đủ sức thuyết phục để thu hút người có trình độ cao, người có tài và người về công tác tại những vùng đặc biệt khó khăn khi chỉ được hưởng ưu tiên về tuyển dụng và chế độ phụ cấp, trợ cấp thu hút mà chưa rõ phụ cấp, trợ cấp thu hút ở mức độ nào hay chế độ lương, đãi ngộ được hưởng như thế nào?
"Nếu không có chính sách cụ thể, rõ ràng thì việc thu hút nhà giáo như mục tiêu, mong muốn của dự thảo Luật khi đề ra quy định này sẽ rất khó thực hiện", đại biểu Phạm Trọng Nghĩa nói.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng chưa làm rõ như thế nào gọi là người có trình độ cao, người có tài năng, người có năng khiếu đặc biệt. Do đó, đại biểu đề nghị quy định rõ về các đối tượng này để tạo thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế.
"Giáo dục là nghề đặc biệt, bên cạnh trình độ, tài năng, năng khiếu thì kỹ năng sư phạm là rất quan trọng, có tài năng nhưng không có khả năng sư phạm để truyền đạt kiến thức, dạy dỗ cho người học thì cũng khó thành công. Do đó, tiêu chí xác định người có tài năng, người có trình độ cao, người có năng khiếu đặc biệt làm nhà giáo cũng nên được làm rõ để đảm bảo tính khả thi của chính sách", đại biểu Phạm Trọng Nghĩa nhấn mạnh.
Góp ý cụ thể một số nội dung của dự thảo Luật, ĐBQH Trần Thị Vân (Bắc Ninh) lưu ý, tại Khoản 2, Điều 27 về tiền lương và phụ cấp đối với nhà giáo quy định: "Tiền lương và các chính sách theo lương của nhà giáo trong cơ sở giáo dục ngoài công lập bảo đảm không ít hơn tiền lương và các chính sách theo lương của nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập có cùng trình độ đào tạo, cùng chức danh trừ khi có thỏa thuận khác."
Quy định "trừ khi có thỏa thuận khác" được hiểu rằng có thể bằng, cao hơn hoặc thấp hơn tiền lương và các chính sách theo lương của nhà giáo ở cơ sở giáo dục công lập. "Như vậy, việc đảm bảo công bằng giữa giữa nhà giáo ở cơ sở giáo dục công lập và nhà giáo ở cơ sở giáo dục ngoài công lập khó thực hiện được". Do đó, đại biểu đề nghị ban soạn thảo cân nhắc xem xét quy định này.
Liên quan đến quy định về thuyên chuyển nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập, dự thảo Luật quy định các trường hợp không được thuyên chuyển gồm: công tác chưa đủ 3 năm tính từ thời điểm được tuyển dụng và bổ nhiệm chức danh nhà giáo trừ trường hợp tự nguyện, tình nguyện thuyên chuyển công tác về cơ sở giáo dục ở nơi đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
Đại biểuChu Thị Hồng Thái đề nghị nghiên cứu quy định mở hơn, linh hoạt hơn đối với trường hợp thuyên chuyển đến cơ sở giáo dục đang thiếu giáo viên để góp phần khắc phục tình trạng thiếu giáo viên hiện nay.
Tại điểm b khoản 1 Điều 29 dự thảo Luật, để đảm bảo chế độ chính sách được công bằng đối với nhà giáo ở vùng khó khăn, đại biểu Chu Thị Hồng Thái đề nghị bổ sung và viết lại như sau: “Nhà giáo công tác ở nơi đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo”. Tương tự tại điểm c khoản 1 Điều 27 bổ sung và viết lại như sau: “Nhà giáo cấp học mầm non; nhà giáo công tác ở nơi đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo".
"Vùng biên giới có vai trò rất quan trọng, cũng là nơi có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, cùng với chính sách di dân ra khu vực biên giới cần có cơ sở hạ tầng cùng với các tiện ích xã hội về y tế, giáo dục ổn định, do vậy cần có chính sách thu hút giáo viên đến công tác, giảng dạy ở khu vực này", đại biểu nhấn mạnh và cho rằng, điều này cũng phù hợp với khoản 3, Điều 6 dự thảo Luật về chính sách của Nhà nước về xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo là “Thu hút nhà giáo tham gia giảng dạy, giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn".
Về chế độ nghỉ hưu đối với nhà giáo, khoản 2 Điều 30 dự thảo Luật quy định: "2. Nhà giáo trong các cơ sở giáo dục mầm non nếu có nguyện vọng thì có thế nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi." Đại biểu Trần Thị Vân đề nghị bổ sung đối tượng giáo viên Tiểu học là nữ được hưởng chế độ nghỉ hưu như giáo viên mầm non quy định tại dự thảo Luật. "Đây cũng là mong mỏi của rất nhiều cử tri khi tôi và các ĐBQH trong Đoàn đi tiếp xúc cử tri các địa phương trong tỉnh", đại biểu Trần Thị Vân nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, đại biểu cũng đề nghị, dự thảo Luật bổ sung một Chương riêng quy định về chế độ làm việc, quyền lợi, trách nhiệm của nhân viên trường học bởi đây là cá nhân có liên quan đến hoạt động của nhà giáo, thuộc đối tượng áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 2 dự thảo Luật. Và trên thực tế, họ cũng là những người thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn và các công việc liên quan giáo dục, hỗ trợ giảng dạy như: hành chính, thư viện, y tế...