Sản lượng và đơn hàng mới đều giảm
Theo S&P Global, sau khi cải thiện nhẹ trong hai tháng đầu năm, các điều kiện kinh doanh của ngành sản xuất Việt Nam hầu như không thay đổi trong tháng 3. Cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều giảm, trong khi tình trạng nhu cầu giảm đã khiến chi phí đầu vào tăng chậm hơn và giá bán hàng giảm.

Một điểm tích cực là niềm tin về triển vọng sản lượng trong một năm tới đạt mức cao của 18 tháng, các nhà sản xuất tuyển thêm nhân viên với tốc độ nhanh hơn.
Tính chung tháng 3, Chỉ số PMI giảm về 49,9 điểm sau khi đạt 50,4 điểm trong tháng 2. Với mức này, PMI của Việt Nam thấp hơn so với mức trung bình của ASEAN là 51,5 điểm, thấp hơn ba quốc gia Singapore, Indonesia và Philippines nhưng cao hơn Thái Lan, Malaysia và Myanmar.
Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence Andrew Harker cho rằng, tăng trưởng của ngành sản xuất Việt Nam đã chậm lại trong tháng 3 khi nhu cầu giảm đã kìm hãm đà tăng của số lượng đơn đặt hàng mới và sản lượng. Tình trạng nhu cầu yếu cũng được phản ánh trong các chỉ số giá cả của khảo sát PMI khi tốc độ tăng chi phí đầu vào đã chậm lại và giá bán hàng đã giảm.
Chỉ số PMI dưới 50 điểm trong tháng 3 đã báo hiệu sự kết thúc của thời kỳ cải thiện điều kiện kinh doanh kéo dài hai tháng vào đầu năm 2024, nhưng cũng cho thấy các điều kiện hoạt động về tổng thể gần như không thay đổi.

Mặc dù có sự yếu kém trong tháng 3, các nhà sản xuất ngày càng tin tưởng rằng sản lượng sẽ tăng trong vòng một năm tới. Mức độ lạc quan mạnh nhất là trong thời gian một năm rưỡi. Các công ty dự kiến tung ra các sản phẩm mới để thúc đẩy sản lượng, đồng thời cũng hy vọng rằng nhu cầu thị trường cải thiện sẽ giúp tăng số lượng đơn đặt hàng mới. Các nhà sản xuất cũng nỗ lực tăng tuyển dụng trong tháng 3, từ đó tăng số lượng việc làm tháng thứ hai liên tiếp. Đây cũng là tốc độ tăng việc làm nhanh nhất kể từ tháng 10.2022.
Các nhà sản xuất giảm giá bán hàng
Các chuyên gia từ S&P Global đánh giá, số lượng nhân viên tăng, cùng với số lượng đơn đặt hàng mới giảm, đã giúp các công ty giải quyết được lượng công việc chưa thực hiện tháng thứ hai liên tiếp. Hơn nữa, tốc độ giảm lượng công việc tồn đọng là nhanh nhất trong năm tháng.
Yêu cầu sản lượng giảm khiến các công ty giảm hoạt động mua hàng trong tháng 3, và đây là lần giảm hoạt động mua hàng thứ năm liên tiếp. Từ đó, tồn kho hàng hóa đầu vào đã giảm mạnh. Tồn kho hàng thành phẩm cũng giảm, và mức giảm lớn nhất trong thời gian 33 tháng. Sản lượng giảm và sản phẩm được chuyển cho khách hàng là những nguyên nhân dẫn đến giảm hàng tồn kho sau sản xuất. Trong một số trường hợp, hàng hóa dành cho xuất khẩu đã được chuyển đi.
Nhu cầu hàng hóa đầu vào giảm đã góp phần làm chậm tốc độ tăng chi phí đầu vào và mức tăng chi phí lần này là nhẹ nhất kể từ tháng 8 năm ngoái và là yếu hơn mức trung bình của lịch sử chỉ số. Ở những nơi giá đầu vào tăng, các thành viên nhóm khảo sát cho rằng nguyên nhân là do giá cả nguyên vật liệu và dầu tăng.
Cũng theo báo cáo, các nhà sản xuất đã giảm giá bán hàng lần thứ hai trong ba tháng qua. Mức giảm nhẹ trong tháng 3 sau khi tăng nhẹ trong tháng 2 phản ánh sự kết hợp của áp lực cạnh tranh, tình hình nhu cầu yếu và mức tăng chi phí chậm hơn. Cuối cùng, thời gian giao hàng của nhà cung cấp hầu như không thay đổi vào cuối quý đầu năm. Những chậm trễ trong khâu chuyển hàng và những xung đột trên thế giới hiện nay đã khiến việc nhận hàng bị chậm trong một số trường hợp, nhưng yếu tố này hầu như đã được triệt tiêu nhờ việc người bán hàng có đủ hàng hóa để đáp ứng các đơn hàng.