Hoạt động kinh tế là đối tượng cơ bản, chủ yếu của quản lý nhà nước. Để điều chỉnh hoạt động kinh tế, quản lý nhà nước, Nhà nước không thể tiếp tục sử dụng các biện pháp hành chính như trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung mà phải dựa vào các công cụ pháp lý và công cụ kinh tế. Trong kinh tế thị trường, pháp luật là công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước. Có thể thấy, chế định về chế độ kinh tế trong Hiến pháp (sửa đổi) đã phản ánh tính tất yếu khách quan và ý chí chủ quan của Nhà nước ta, phù hợp với sự phát triển tất yếu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng cũng như quá trình kinh tế nói riêng. Chế độ kinh tế được chế định trong Hiến pháp (sửa đổi) đã xác định và chế định vai trò, vị trí các chính sách, công cụ quản lý kinh tế trong một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước.
Mục tiêu của nền kinh tế được khẳng định rõ tại Điều 50, Hiến pháp (sửa đổi) là: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các quy định này đã tạo sự rõ ràng hơn cả về nhận thức, các chế định về định hướng xã hội chủ nghĩa, hạn chế những chính sách can thiệp làm biến dạng thị trường; tạo điều kiện cho cạnh tranh bình đẳng và phúc lợi được phân chia công bằng; tăng cường công cụ kiểm soát các nhóm lợi ích (nhà kinh doanh + quan chức nhà nước)
Về chế độ quản lý và vận hành nền kinh tế, Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định tính nhất quán trong đường lối phát triển nền kinh tế thị trường; phát triển đồng bộ các loại thị trường; sửa đổi và bổ sung các chế định về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, các loại hình kinh tế, tức là các hình thức pháp nhân kinh tế, phương thức vận động của nó, đồng thời là phương thức tồn tại và vận động của toàn bộ cơ chế kinh tế. Đó là sự thừa nhận của Nhà nước về mặt chính trị, mặt giai cấp của các pháp nhân kinh tế, sự hợp pháp hóa về tổ chức tư cách pháp nhân của các loại hình sản xuất kinh doanh. Hiến pháp khẳng định: nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu... kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo… Các chủ thể của nền kinh tế bình đẳng hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật (Điều 51). Cần có sự nhận thức thống nhất về nội hàm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường được xây dựng và bảo đảm phát triển bởi Nhà nước xã hội chủ nghĩa, có đầy đủ những quy luật đặc trưng của nền kinh tế thị trường, có sự quản lý, tác động, điều chỉnh của Nhà nước để bảo đảm công bằng xã hội, vì lợi ích của nhân dân lao động. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là người định hướng trên cơ sở tôn trọng các quy luật vận động tự thân của nền kinh tế thị trường, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động kinh tế và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Nhà nước không can thiệp bằng biện pháp hành chính vào các quan hệ kinh tế mà là người lãnh đạo, chỉ huy các hoạt động kinh tế và tham gia làm kinh tế. Cạnh tranh là nguyên tắc chủ đạo của cơ chế thị trường, của nền kinh tế thị trường. Các chủ thể kinh tế có quyền cạnh tranh bình đẳng với nhau trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Về các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, các loại hình kinh tế, tức là các hình thức pháp nhân kinh tế, phương thức vận động của nó, đồng thời là phương thức tồn tại và vận động của toàn bộ cơ chế kinh tế. Đó là sự thừa nhận của Nhà nước về mặt chính trị, mặt giai cấp của các pháp nhân kinh tế, sự hợp pháp hóa về tổ chức tư cách pháp nhân của các loại hình sản xuất kinh doanh; tôn trọng đa dạng hình thức sở hữu, bảo hộ sở hữu tư nhân, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ. Hiến pháp quy định phạm vi sở hữu nhà nước, các tài sản thuộc về quốc gia và quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân, của pháp nhân kinh tế trong sử dụng các nguồn tài sản quốc gia. Nhà nước xác lập các chủ thể hoạt động kinh tế và xác lập địa vị pháp lý kinh tế, trước hết là của chính Nhà nước. Phạm vi sở hữu của các chủ thể kinh tế ứng với từng loại hình chủ thể đã được hợp pháp hóa. Hiến pháp quy định từ hai phương diện chủ thể sở hữu và tính chất vật sở hữu. Cụ thể, đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng trời, vùng biển, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư quản lý, tài chính Nhà nước là tài sản công, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (Điều 53). Tài sản công, tài sản quốc gia là bất khả xâm phạm, phải được quản lý và khai thác sử dụng có hiệu quả, vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Đây là bước đầu tách bạch ý thức chính trị với cách thiết kế các chế định về sở hữu trong Hiến pháp. Hiến pháp khẳng định Nhà nước là người thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu quốc gia, sở hữu Nhà nước và có phân công, phân cấp trong quản lý tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
Quyền kinh tế được xác lập và thực hiện cùng với quyền của mọi công dân Việt Nam: được bình đẳng và không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, văn hóa xã hội (Điều 16), quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài và quyền từ nước ngoài về nước (Điều 23). Điểm nhấn mạnh quan trọng nhất về quyền kinh tế được hiến định và bảo đảm trên thực tế bởi quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm, quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; quyền bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật giữa các chủ thể kinh tế. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững trong các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Hiến pháp cũng quy định: tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư sản xuất - kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa (Điều 50). Nhà nước chỉ trưng mua, trưng dụng trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng khẩn cấp và việc trưng mua, trưng dụng tài sản có bồi thường theo giá thị trường (Điều 32 và Điều 35).
Cùng với quyền kinh tế, Hiến pháp chế định quyền người dân được bảo đảm an sinh xã hội, quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, nơi làm việc, được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi; quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, sử dụng các dịch vụ y tế; quyền nghiên cứu khoa học, công nghệ, sáng tạo và thụ hưởng các lợi ích từâ hoạt động văn học nghệ thuật, quyền tiếp cận và hưởng thụ các giá trị văn hóa; quyền sống trong môi trường lành mạnh.
Tất nhiên, quyền luôn đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân trong việc tuân thủ luật pháp, trong bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia và nộp thuế theo luật định. Kinh tế phát triển kéo theo những đòi hỏi mới về phân chia lợi ích, phân chia phúc lợi và công bằng xã hội, trách nhiệm bảo vệ môi trường sống cũng như giữ gìn các nguồn tài nguyên cho thế hệ mai sau; đặc biệt, mọi tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước…
Quản lý kinh tế gắn chặt với quyền sử dụng đất với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt và quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân được nhà nước giao đất, cho thuê đất được Nhà nước công nhận và bảo hộ. Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp cần thiết vì mục đích quốc phòng an ninh, phát triển kinh tế -xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh hoặc trong trạng thái chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai (Điều 54).
Quyền kinh tế, văn hóa giáo dục, khoa học công nghệ… được thực hiện trong sự quản lý kinh tế vĩ mô chung của Nhà nước. Một chế độ tôn trọng luật pháp, có pháp luật dân sự, kinh tế rõ ràng, bảo đảm tự do sở hữu, tự do kinh doanh, giới hạn sự can thiệp bằng biện pháp hành chính của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, các chính sách kinh tế có thể tiên liệu được - đây chính là nền tảng quan trọng cho một nền kinh tế thị trường. Hiến pháp quy định trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội, quản lý nền tài chính quốc gia, phát triển hệ thống an sinh xã hội, trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trên tất cả các mặt: việc làm, chỗ ở, đi lại, chăm sóc sức khỏe, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường sống. Hiến pháp cũng quy định rõ phương thức vận động kinh tế, thẩm quyền của các pháp nhân kinh tế và nhà nước trong việc điều hành, điều chỉnh nền kinh tế. Đã và đang có sự thay đổi nhận thức và chuyển dần từ Chính phủ cai trị sang Chính phủ phục vụ. Nhà nước có trách nhiệm xây dựng và hoàn thiện các thể chế kinh tế - xã hội, điều tiết kinh tế - xã hội trên cơ sở tôn trọng quy luật thị trường, thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm xây dựng một hệ thống pháp luật để điều chỉnh các hoạt động trong nền kinh tế quốc dân. Quyền uy của Nhà nước được bảo đảm và thể hiện xuyên suốt trong quá trình tái sản xuất xã hội, quyết định lợi ích kinh tế có tính giai tầng cơ bản trong xã hội. Đó là lợi ích về nguồn tài nguyên quốc gia, có liên quan nguồn sống của xã hội, của dân tộc, lợi ích từ nguồn thu nhập quốc dân. Nhà nước thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật các tài sản và nguồn lực quốc gia.
Chế định hoạt động tài chính, ngân sách nhà nước. Tài chính nhà nước là bộ phận cấu thành quan trọng của nền tài chính quốc gia, là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, là yếu tố mang tính quyết định để kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tài chính Nhà nước bao gồm ngân sách Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, quỹ dự phòng và các quỹ tài chính tập trung, chuyên dùng của Nhà nước, do Nhà nước thành lập. Nhà nước thống nhất quản lý tài chính Nhà nước. Tài chính Nhà nước là nguồn lực tài chính thuộc sở hữu toàn dân phải được sử dụng có hiệu quả, công bằng và công khai, minh bạch. Hiến pháp quy định: ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia; ngân sách địa phương được phân chia và gắn liền với từng cấp chính quyền địa phương; các khoản thu chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định. Đơn vị tiền tệ quốc gia tiếp tục được khẳng định là Đồng Việt Nam và Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Trong cơ chế quản lý kinh tế của mỗi quốc gia, tài chính luôn luôn là tổng hòa các mối quan hệ kinh tế, là tổng thể các nội dung và giải pháp tài chính - tiền tệ. Tài chính không chỉ có nhiệm vụ nuôi dưỡng, phát triển, khai thác các nguồn lực; thúc đẩy, duy trì tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập mà còn phải quản lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của đất nước. Tài chính, mà biểu hiện cụ thể là các quỹ tiền tệ được hình thành qua phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập quốc dân, thực chất là công cụ phân phối sản phẩm quốc dân. Thông qua phân phối tài chính, mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng được xác lập và từ đây các quan hệ cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân được xác lập. Các quan hệ tài chính luôn giữ vai trò trung tâm trong quá trình thực hiện các giải pháp nhằm ổn định tiền tệ, bình ổn vật giá, nâng cao sức mua và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Thông qua các quan hệ phân phối, tài chính được sử dụng như một công cụ sắc bén điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Quyết định chính sách cơ bản tài chính quốc gia, tiền tệ quốc gia là nhiệm vụ và quyền hạn của QH (Điều 70). Tài chính quốc gia và tiền tệ quốc gia là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành của nền kinh tế được tiền tệ hóa. Tài chính tham gia vào quá trình thực hiện các định hướng kinh tế của Nhà nước và hướng dẫn các hoạt động kinh doanh, điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Tài chính quốc gia, trong đó có tài chính nhà nước là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô toàn diện các quan hệ kinh tế.
Khoản 4 điều 70 của Hiến pháp quy định nhiệm vụ và quyền của QH trong quyết định ngân sách nhà nước: phân chia các khoản thu và chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước. Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp với thể chế và nguyên tắc quản lý của Nhà nước ta: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất. QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, ĐBQH là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước và của nhân dân ở đơn vị bầu cử. Vì vậy, quyết định ngân sách nhà nước là thẩm quyền của QH; HĐND các cấp có thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách địa phương trong tổng thể ngân sách nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Hiến pháp đã quy định: HĐND quyết định các vấn đề của địa phương theo luật định (Điều 113) trong đó có dự toán, phân bổ và quyết toán ngân sách địa phương.
Về quan hệ kinh tế quốc tế: hội nhập kinh tế quốc tế và trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới đã tạo sức ép buộc nước ta phải điều chỉnh hệ thống pháp luật để các cơ chế kinh tế và các quy định pháp luật vận hành trong môi trường cạnh tranh rộng lớn hơn, ngày càng mang tính toàn cầu hơn. Để phát triển kinh tế - xã hội, Điều 50, Hiến pháp khẳng định: xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập và hợp tác quốc tế. Hiến pháp cũng thể hiện cam kết của Nhà nước ta là: chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, tuân thủ Hiến chương Liên Hiệp Quốc và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;là bạn đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới (Điều 12).
Hiến pháp (sửa đổi) cũng đưa các quy định về vấn đề kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường về cùng một chương là Chương III – Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Các quy định của Chương III có quan hệ chặt chẽ với các quy định của các chương khác trong Hiến pháp, đặc biệt là Chương II Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, Chương V - Quốc hội và Chương IX - Chính quyền địa phương. Cách thức quy định như vậy là hợp lý vì đây là các vấn đề có sự gắn kết rất chặt chẽ và tác động qua lại trong việc bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân, trong việc thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội cũng như quyền lợi hợp pháp của người dân trong kinh doanh, học tập, nghiên cứu khoa học, việc làm, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe và môi trường sống.