Chất lượng giáo viên - lời giải cho việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số

Thanh Hà 27/11/2010 00:00

Trong chương trình tiểu học, tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là đối với lớp 1, bởi tiếng Việt giúp học sinh làm chủ “công cụ” sử dụng trong giao tiếp và học tập. Đối với học sinh dân tộc thiểu số thì việc đọc thông, viết thạo tiếng Việt lại càng quan trọng. Nhờ đọc thông, viết thạo tiếng Việt, học sinh có thể nghe giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo để tự học một cách chủ động. Từ việc học tốt môn tiếng Việt các em mới học tốt các môn khác trong nhà trường.

Theo đánh giá của Bộ Giáo dục  và Đào tạo, chất lượng dạy học môn tiếng Việt, đặc biệt là tiếng Việt cho học sinh dân tộc trong  nhiều năm qua vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Một số nguyên nhân dẫn đến của tình trạng này được Bộ Giáo dục và Đào tạo đề cập  như: ngoài các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội… thì chương trình tiếng Việt là chương trình chung cho cả nước, sách giáo khoa chủ yếu soạn cho học sinh học tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đẻ, các em đã biết nghe, biết nói tiếng Việt trước khi đến trường; một số nội dung, yêu cầu trong sách giáo khoa chưa thật sự gần gũi và phù hợp với khả năng, thực tế cuộc sống của học sinh dân tộc;  phương pháp dạy học tiếng mẹ đẻ của chương trình sách giáo khoa không phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc chưa biết hoặc biết rất ít tiếng Việt;  nhiều giáo viên không biết tiếng dân tộc để hỗ trợ học sinh học tốt hơn… Kết quả học tập môn tiếng Việt lớp 1 năm học 2009 - 2010 ở các địa phương vẫn còn thấp, cụ thể: Hà Giang, số lượng học sinh yếu chiếm 22,48%; Đăk Nông là 16,94%; Gia Lai là 16,77%... Những con số này cho thấy, để nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc, thì trước hết phải nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Việt cho học sinh ở những vùng này.

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với UNICEF thử nghiệm Nghiên cứu thực hành giáo dục song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ từ mẫu giáo 5 tuổi đến hết lớp 5 tại 3 tỉnh Lào Cai, Gia Lai và Trà Vinh. Kết quả cho thấy, học sinh dân tộc thiểu số học tập vui vẻ, sôi nổi, tự tin; các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ và kỹ năng nghe, nói tiếng Việt tiến bộ rõ rệt. Ở các lớp mẫu giáo 5 tuổi, các buổi học hào hứng và vui vẻ, tạo cơ hội để phát triển hơn vốn tiếng mẹ đẻ ít ỏi của mình, đồng thời quen dần với yêu cầu nghe, nói tiếng Việt, tích cực chuẩn bị ngôn ngữ để lên học lớp 1. Những kết quả tích cực đó là những thành công bước đầu của thí điểm đề án này. Và cũng là những gới ý cấn thiết  hình thành chương trình day tiếng Việt cho học sinh người dân tộc thiết thực, bên vững và lâu dài .

 Phát triển tiếng nói và chữ viết các dân tộc một cách hoàn chỉnh có những hạn chế nhất định vì "không gian" ngôn ngữ tồn tại trong đời sống tình cảm, sinh hoạt,  trình độ sản xuất nhiều còn thấp kém, có nơi vẫn còn tự cung, tự cấp. Khi  sự giao lưu giữa các nền văn hóa khác nhau, ngôn ngữ đó nhiều khi không còn đủ để diễn đạt đời sống kinh tế, xã hội, khoa học  phát triển và hiện đại… nên việc dạy song ngữ tiếng Việt và tiếng dân tộc sẽ có những giới hạn và nhiều khó khăn khi truyền tại tri thức hiện đại. Vì vậy muốn chương trình dạy song ngữ có hiệu quả,  phải có sự lưa chọn kỹ lưỡng nội dung phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể và phải có lộ trình, theo mục tiêu, yêu cầu đề ra trong từng giai đoạn. Không thể gộp chung vào một gói " cần thiết" mà không chú ý tới hiệu quả, tính bên vững, thiết thực của chương trình.

 Trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thì tiếng nói và chữ viết có vai trò quan trọng. Tiếng nói, chữ viết của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam là công cụ mang thông tin, ghi chép, truyền đạt lại một cách tối ưu nhất các giá trị văn hóa, phong tục tập quán, thể hiện sâu sắc ý chí của người truyền đạt thông tin cũng như các nội dung và hình thức thể hiện của các giá trị văn hóa để người được tiếp cận nắm bắt và hiểu rõ ý nghĩa của các giá trị văn hóa đó. Đồng thời, tiếng nói và chữ viết là công cụ quan trọng nhất trong việc nghiên cứu, phổ biến sâu rộng các giá trị văn hóa dân tộc. Nhưng để tiếp cận với thế giới hiện đại, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật thì tiếng nói, chữ viết của một dân tộc luôn có những hạn chế nhất định.  Việc giao lưu học tập ngôn ngữ các nước là câu chuyện cần thiết, là đòi hỏi khách quan nhất là trong thế giới rộng mở, hợp tác sâu rộng như hiện nay. Trong một đất nước có nhiều dân tộc, tồn tại nhiều tiếng nói, chữ việc của các dân tộc cùng chung sống nhưng vẫn có tiếng phổ thông, tiếng nói, chữ viết chung. Ở nước ta đó là tiếng Việt. Nhưng để tiếp cận, để học được tiếng Việt tốt và làm chủ ngôn ngữ, tiếng nói văn hoá của dân tộc mình, thì việc dạy song ngữ có vai trò hết sức quan  trọng.

Đối với trẻ em dân tộc thiểu số, rào cản ngôn ngữ đã ảnh hưởng tới hiệu quả học tập bằng tiếng Việt của trẻ. Vì vậy việc tăng cường tiếng Việt thông qua giáo dục song ngữ cho trẻ em dân tộc thiểu số là điều đáng quan tâm. Nhưng vấn đề quan trọng chính là cần rạch ròi giữa giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ và dạy tiếng Việt trên cơ sở tiếng mẹ đẻ. Việc dạy song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với việc phát triển song song hai ngôn ngữ là tiếng dân tộc và tiếng Việt. Vấn đề đó sẽ được giải quyết ra sao khi nhiều dân tộc chỉ có tiếng nói, số ít dân tộc có chữ viết. Theo thống kê, nước ta có 53 dân tộc thiểu số, trong đó khoảng 30 dân tộc thiểu số có chữ viết như: Tày, Thái, Hoa, Khmer, Hmông, Giarai… Và  đến nay có hơn 10 loại chữ dân tộc thiểu số được dạy trong trường học.

Vẫn còn  rất nhiều khó khăn đặt ra cho việc giáo dục song ngữ như: đào tạo giáo viên- nguồn đâu ra ? Chữ viết là vấn đề quan trọng của dạy song ngữ, nhưng bộ chữ nào là bộ chữ chuẩn, ai thẩm định và biên soạn sách giáo khoa ? Sách dạy tiếng Việt cho dân tộc thiểu số có sách chung không? Nếu như vậy, trong một lớp có nhiều dân tộc thiểu số, việc dạy sẽ như thế nào ?

Nên chăng, để nâng cao chất lượng học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cần dạy tiếng Việt trên cơ sở tiếng của từng dân tộc. Điều đó sẽ giúp học sinh dân tộc dễ tiếp cận và tiếp cận nhanh hơn với tiếng Việt. Và việc đó liên quan đến vấn đề bồi dưỡng giáo viên ở những trường này. Bởi giáo viên trong các trường có học sinh dân tộc thiểu số theo học đa phần là người Kinh, ở nơi khác đến giảng dạy nên  không biết ngôn ngữ dân tộc, nếu biết thì cũng chỉ dừng ở mức độ rất ít nên họ không thể so sánh, đối chiếu, liên hệ khi gặp những tình huống cần thiết trong dạy học tiếng Việt cho đối tượng học sinh đặc biệt này. Mặt khác, về phong tục tập quán, họ lại càng không có điều kiện tìm hiểu, cho nên họ khó có thể tiếp cận với phụ huynh, gia đình các em, khó có thể tiếp xúc gần gũi, rút ngắn khoảng cách, xóa ranh giới không cần thiết giữa thầy và trò, để dạy tiếng Việt hiệu quả.

Dạy học cho học sinh người dân tộc trước hết phải do chính giáo viên người địa phương đảm nhiệm mới mang lại hiệu quả cao. Nhưng trình độ chuyên môn của giáo viên địa phương chưa được chuẩn, đa số giáo viên địa phương ở đây chỉ trải qua những lớp đào tạo ngắn hạn. Bản thân họ cũng chưa nắm vững những kiến thức về tiếng Việt nên việc truyền tải những kiến thức này đến cho học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Như vậy cần có giải pháp đồng bộ, điều động bổ sung  giáo viên từ các vùng có điều kiện phát triển hơn đến hỗ trợ giáo viên tại chỗ; đồng thời bồi dưỡng có hệ thống để nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên tại chỗ. Điều này cho thấy chính chất lượng giáo viên là bài toán mà ngành giáo dục cũng như các cấp, các ngành liên quan cần tìm được lời giải thấu đáo để việc dạy tiếng Việt trong cho học sinh dân tộc đạt hiệu quả.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Chất lượng giáo viên - lời giải cho việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO