Chắt chiu từng giọt nước
Trên vùng cao nguyên đá Hà Giang, gồm 4 huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ, Yên Minh, thiếu nước trong mùa khô trở thành nỗi ám ảnh với người dân. Để giải quyết tình trạng này, mấy năm qua, Hà Giang đã triển khai xây dựng 92 hồ chứa nước (hồ treo) cùng hàng nghìn bể nước mưa, hệ thống dẫn nước tự chảy tại các thôn, bản... Tuy nhiên, đến nay mới chỉ giải quyết được 50% nhu cầu nước sinh hoạt cho người dân.
Giọt nước - giọt “vàng”
Ông Giàng Mí Lình, dân tộc Mông ở thôn Đoàn Kết, xã Sủng Là, Đồng Văn dẫn chúng tôi ra sau nhà để “ngắm” bể chứa nước của gia đình. Nhón tay vào bể, từng giọt, từng giọt nước trong veo theo tay ông nhỏ xuống. Ông ví những giọt nước ở đây quý như những giọt “vàng”. Ông Lình cho biết: “Cái bể này xây được 4 năm rồi. Nó đựng được khoảng 8 khối nước đấy!”. Chỉ tay xuống nền xi măng bên cạnh, ông cho biết thêm: “Dưới đất có một bể ngầm chứa 12 khối nước nữa đấy! Nhà phải xây 2 bể mới đủ nước dùng trong mùa khô. Gia đình mua xi măng, cát… mang về xây bể chứa nước cũng hết nhiều tiền. Nhưng phải làm thì mùa khô mới có nước mà dùng”.
Nhớ lại thời điểm 5 năm trước, ông Lình vẫn chưa nguôi nỗi ám ảnh thiếu nước sinh hoạt khi mùa khô đến. Thôn Đoàn Kết nằm trọn dưới lòng một thung lũng sâu, bên cạnh là trung tâm xã Sủng Là. Mặc dù so với các thôn, bản khác trong huyện, Đoàn Kết được xem là thôn “đồng bằng”, nhưng thung lũng này cũng không thoát khỏi cảnh “khát nước” vào mùa khô (từ tháng 11 năm này đến tháng 4 năm sau). Ông Lình kể, trước kia dân bản đi lấy nước khổ lắm, đi cả ngày đến các mó nước ở vùng Phố Bảng, cách thôn 4 - 5km mới lấy được 1 can nước mang về. Vào mùa khô, mỗi gia đình phải cắt cử người chuyên đi lấy nước sinh hoạt. Vì thiếu nước nên các gia đình đều phải tận dụng nước vo gạo, rửa rau để rửa mặt, rửa bát, cho bò uống… Còn việc tắm giặt thì thường phải “nhịn” đến tận mùa mưa mới có nước để “tổng vệ sinh”.
Từ năm 2011, được Chính phủ đầu tư xây dựng hồ treo tại thôn Lao Xa, xã Sủng Là với dung tích 5.680m3, bà con vô cùng phấn khởi. Mặc dù hồ treo nằm cách thôn Đoàn Kết hơn 2km, nhưng so với quãng đường đi lấy nước ngày xưa thì đã gần hơn rất nhiều. Hồ treo tích lại những “giọt vàng” làm vơi đi những cơn khát khô hành hạ bao thế hệ người Mông trên vùng cao nguyên đá khô hạn, khắc nghiệt này.
Còn tại Mo Pải Phìn - một thôn biên giới có 92 hộ đồng bào Mông sinh sống - ông Vừ Chống Cáy, Trưởng thôn cho biết, thời điểm thôn chưa có hồ treo, dân bản phải đi bộ xuống núi, cách bản hơn chục cây số để lấy nước. Khi lấy được can nước về bà con phải dành dụm dè xẻn từng giọt để ăn uống. Từ năm 2010, được Chính phủ đầu tư xây dựng một hồ treo ngay cạnh đường vào bản, từ đó bà con yên tâm làm ăn, không còn lo canh cánh thiếu nước sinh hoạt. Nhiều hộ đã biết tiết kiệm tiền để tự đầu tư xây bể trữ nước của gia đình. Cuộc sống đỡ khổ nhiều rồi!
![]() Hồ chứa nước sinh hoạt thôn Lao Xa, xa Sủng La được đưa vao sử dụng năm 2012 (Ảnh: Ngọc Ánh) |
Trăn trở tìm giải pháp bền vững
Ông Phạm Bá Khoát, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Hà Giang cho biết, được sự quan tâm, hỗ trợ nguồn vốn của Chính phủ, trong những năm qua, nhiều hồ treo đã được xây dựng trên địa bàn 4 huyện vùng cao núi đá nhằm dự trữ nước sinh hoạt cho đồng bào các dân tộc vào mùa khô. Khởi đầu từ năm 2002, hồ chứa nước Xà Phìn, xã Xà Phìn, Đồng Văn với dung tích chứa 3.000m3 được khởi công xây dựng. Hồ được tích nước từ các mạch nước phát lộ trong mùa mưa nhằm cung cấp nước sinh hoạt cho đồng bào vào mùa khô.
Năm 2006, hồ chứa nước sinh hoạt xã Tả Lủng, Mèo Vạc có dung tích 30.000m3 cũng được khởi công xây dựng. Từ thực tiễn cho thấy, các hồ treo đã mở ra hướng đi trong giải quyết “nạn khát” của người dân thuộc 4 huyện vùng cao nguyên đá.
Theo số liệu thống kê của Sở NN - PTNT tỉnh Hà Giang, tới thời điểm này (7.2016), toàn tỉnh xây dựng xong 92 hồ treo đưa vào sử dụng với tổng dung tích chứa 454 nghìn m3 nước, cung cấp nước sinh hoạt cho hơn 70 nghìn người dân. Cụ thể: Đồng Văn 26 công trình, Mèo Vạc 18 công trình, Yên Minh 16 công trình và Quản Bạ 15 công trình.
Trong giai đoạn 2015 - 2020, Hà Giang đang đặt mục tiêu xây dựng thêm 194 hồ chứa nước sinh hoạt. Mục tiêu là vậy, nhưng theo TS. Lê Huy Y, nguyên Giám đốc Liên hiệp Khoa học địa chất và Du lịch thuộc Tổng hội Địa chất Việt Nam, việc tìm nguồn nước để xây dựng hồ treo ở nơi có nước ngầm thường xuyên chảy vào trên vùng cao nguyên đá vôi còn khó hơn mò kim dưới đáy biển. Nếu xây dựng hồ treo chặn nước suối ở vùng thấp (huyện Yên Minh) để bơm lên Đồng Văn, Mèo Vạc với độ cao chênh hơn 500m là điều không tưởng cả về kỹ thuật và tiền điện. Giải pháp duy nhất là phải tiến hành khoan thăm dò những nguồn nước ngầm trong lòng núi đá vôi để bơm lên các hồ treo. Tuy giải pháp này mất nhiều thời gian khảo sát, thăm dò và tốn kém kinh phí nhưng không còn phương án nào khác để có thể khai thác được nguồn nước.
Bài toán giải quyết vấn đề cung cấp nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao Hà Giang tuy khó khăn, nan giải nhưng cần nhiều thời gian, kinh phí và lòng kiên trì. Hy vọng trong “cái khó sẽ ló cái khôn”, những giọt nước quý như giọt “vàng” sẽ được tìm thấy nhiều hơn để phục vụ nhu cầu cuộc sống sinh hoạt cho những thế hệ đã nghìn năm sống trên vùng cao nguyên đá.