Chậm mà chắc
Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, kinh tế thế giới đã cho thấy sự phục hồi trong một thời gian ngắn. Từ năm 2011, cỗ xe kinh tế bước vào giai đoạn hai của cuộc khủng hoảng, với những bung bét trong vấn đề nợ công rồi sự bấp bênh của nền kinh tế Mỹ. Trong bối cảnh đó, châu Á - Thái Bình Dương phải làm gì để không bị cuốn theo vòng xoáy khủng hoảng? Nên chăng đó là sự xác định rõ những khó khăn cùng những hướng đi không cần quá nhanh mà phải chắc?
Trước hết hãy bàn đến những tác động từ bên ngoài có thể khiến nhiều nền kinh tế ở châu Á - Thái Bình Dương lung lay. Đó là cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu và sự tan vỡ của Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone). Kịch bản xấu nhất này có thể dẫn đến kim ngạch xuất khẩu của châu Á - Thái Bình Dương giảm tới 390 tỷ USD trong một năm, mất tới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù ít có khả năng xảy ra, nhưng một kịch bản như vậy có thể khiến tỷ lệ tăng trưởng của khu vực giảm 1,3% và ngăn cản 22 triệu người thoát khỏi đói nghèo trong năm 2012.

Viễn cảnh thực tế nhất là sắp tới Mỹ và châu Âu sẽ lại là trọng tâm của mọi cuộc bàn tán, với mức nợ cao, tỷ lệ tăng trưởng thấp và chính trường trong nước bất hòa. Có thể đồng euro vẫn nguyên vẹn, song châu Âu sẽ sa lầy với mục tiêu tái thiết lại liên minh. Tại Mỹ, sự phân cực về ý thức hệ giữa đảng Dân chủ và Cộng hòa sẽ tiếp tục làm tê liệt chính sách kinh tế. Do vậy, ít nhất là trong tương lai gần, tất cả các nền kinh tế phát triển đều sẽ tập trung hơn vào trong nước và trở thành những đối tác quốc tế ít hỗ trợ hơn, không muốn duy trì hệ thống thương mại đa phương và sẵn sàng phản ứng đơn phương với các chính sách kinh tế bị cho là phá hoại các lợi ích của họ. Trong khi đó, các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil sẽ vẫn muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia của họ. Hậu quả là khả năng hợp tác kinh tế toàn cầu, trong đó có châu Á - Thái Bình Dương, và các vấn đề khác sẽ giảm hơn nữa, thu hẹp tiềm năng tăng trưởng của mọi quốc gia và gây ra sự bất bình đẳng sâu sắc trong hoạt động kinh tế thế giới.
Những tác động trên sẽ khiến tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của châu Á - Thái Bình Dương giảm xuống 6,5% trong năm nay so với mức 7% của năm 2011. Nhu cầu giảm sút đối với xuất khẩu của khu vực và chi phí vốn cao hơn, cùng với những chính sách tiền tệ lỏng lẻo và sự bảo hộ thương mại tại một số nền kinh tế phát triển, sẽ góp phần vào chiều hướng xấu này. Trong bối cảnh đó, châu Á - Thái Bình Dương phải làm gì?
Trước hết, các nền kinh tế quốc gia và khu vực cần thích ứng nhanh với sự biến động liên tục của giá hàng hóa. Cơn sốt hàng hóa do giá cả leo thang vừa là rủi ro, vừa là cơ hội. Sự biến động giá cả đang làm thay đổi những ưu đãi, nhưng các nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương kém phát triển sẽ phải chống lại việc hướng tới chuyên môn hóa hàng hóa. Bài học từ vòng toàn cầu hóa đầu tiên của phương Tây là việc chuyên môn hóa các nguồn tài nguyên, nhất là tại các nước nghèo nhất, có thể không thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, đa dạng hóa kinh tế và tạo ra năng lực sản xuất.
Một bước đi quan trọng khác là giải quyết vấn đề tăng tỷ lệ thất nghiệp và bất bình đẳng. Việc này yêu cầu một tiến trình tái cơ cấu từng bước, hỗ trợ tiêu dùng trong nước cao hơn, coi đó là động cơ của tăng trưởng và tăng năng suất, tạo việc làm và bình đẳng thu nhập.
Những thách thức chính sách kinh tế quan trọng khác cũng cần được chú ý, như duy trì cán cân giữa tăng trưởng và ổn định giá cả, trong đó sẽ yêu cầu các biện pháp chống lạm phát xa hơn chính sách tiền tệ; đối phó với các luồng vốn, nhất là việc tăng các khoản nợ ngắn hạn; xử lý sự biến động hối đoái và giải quyết ảnh hưởng của các thảm họa thiên tai. Việc hạ mức nợ công xuống thấp là rất quan trọng bởi vì khi mức nợ lên tới 80 - 90% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), nó sẽ trở thành gánh nặng đối với tăng trưởng kinh tế. Các chính phủ, trong đó đa số là các nền kinh tế phát triển, dường như không thể thực hiện những khoản đầu tư cần thiết cho sự thay đổi cấu trúc lâu dài phải lo giảm nợ. Nhiều nền kinh tế thị trường mới nổi như Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm cách kiểm soát mức tăng nợ công nhưng thất bại vì họ không ngăn chặn được tình trạng đi vay quá mức của khu vực tư nhân, khi các khoản nợ tư nhân có thể trở thành nợ công
Quá phụ thuộc vào các thị trường thế giới và tài chính toàn cầu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng sẽ là bất lợi. Một nền kinh tế toàn cầu mong manh sẽ không hiếu khách đối với các nước vay ròng nước ngoài lớn hoặc các nước cho vay ròng lớn. Những nước có thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như Thổ Nhĩ Kỳ sẽ vẫn là con tin của tâm lý thị trường hay thay đổi. Những nước có thặng dư tài khoản vãng lai lớn như Trung Quốc sẽ phải chịu sức ép ngày càng tăng trong việc hạn chế các chính sách “trọng thương” của họ.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hỗn loạn và bất ổn như hiện nay, các nước châu Á - Thái Bình Dương may mắn khi có tỷ lệ tăng trưởng GDP cao, tài chính dồi dào và sự tăng cường hợp tác kinh tế khu vực. Việc lựa chọn những chính sách đúng đắn sẽ giúp châu Á - Thái Bình Dương hưng thịnh. Chính sách đó về cơ bản sẽ phải đáp ứng hai yêu cầu lớn, đó là nợ công thấp và có động cơ tăng trưởng trong nước.