Chạm, khảm văn chương nét kiến trúc độc đáo của cung đình Huế
Hệ thống thơ văn chữ Hán được chạm, khắc, khảm, cẩn, tráng men hay đắp nổi trên các công trình kiến trúc cung đình Huế giai đoạn 1802 - 1945 gồm hàng nghìn bài thơ, văn, câu đối... Đây là cách thức trang trí kiến trúc đặc biệt ở Huế. Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đang lập hồ sơ đề nghị UNESCO đưa hệ thống trên vào danh mục Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, năm 1804, vua Gia Long bắt đầu xây dựng Hoàng thành Huế, mở đầu là 3 công trình kiến trúc quan trọng nhất: Thái Miếu để thờ tổ tiên, điện Cần Chánh làm nơi vua thiết triều, và cung Diên Thọ dành cho Hoàng Thái hậu. Sau đó, các công trình kiến trúc khác trong Hoàng thành và Cung thành (sau gọi là Tử Cấm thành) lần lượt được xây dựng. Tuy nhiên, phải sau khi vua Minh Mạng lên ngôi và tiến hành quy hoạch lại toàn bộ Hoàng thành, Tử Cấm thành, cho xây dựng Thế Tổ Miếu, sắp đặt lại vị trí của Hoàng Khảo Miếu (sau đổi là Hưng Tổ Miếu), dời vị trí điện Thái Hòa về phía nam, xây dựng Ngọ Môn (thay cho Đoan Môn)... thì bố cục, diện mạo của Hoàng cung triều Nguyễn mới hoàn chỉnh. Từ thời Minh Mạng, việc sử dụng thơ văn để trang trí trên các công trình mới trở nên phổ biến và trở thành điển chế. Các công trình kiến trúc từ Ngọ Môn đến điện Thái Hòa, Đại Cung Môn, điện Cần Chánh, Thái Tổ Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu... đều sử dụng văn thơ để trang trí khắp trên liên ba, đố bản, cả nội và ngoại thất công trình. Và cách trang trí một ô thơ hoặc một bức đại tự đi liền với một bức họa tạo nên kiểu thức nhất thi nhất họa hoặc nhất tự nhất họa gần như đã trở thành phong cách riêng trong trang trí kiến trúc cung đình Nguyễn. Giai đoạn này, chất liệu chế tác hệ thống văn tự là gỗ quý (lim, kiền kiền...) hoặc xà cừ, xương hay cao cấp hơn là ngà voi, đồ pháp lam (đồ đồng, tráng men). Nghệ nhân khắc, chạm hoặc khảm, cẩn trực tiếp lên những tấm gỗ đã định sẵn kích cỡ, sau đó gắn trực tiếp lên công trình (hoặc có thể sơn son thếp vàng hay sơn quang) tạo thành liên ba, đố bản, cổ diềm, vách ván của cung điện, đình tạ, lầu các. Đối với pháp lam, nghệ nhân viết chữ rồi tráng men trên những tấm đồng, tạo nên những bức thơ, họa pháp lam nhiều màu sắc, chủ yếu trang trí ngoại thất công trình, trên cổ diềm cung điện, trán cổng...
![]() Thơ văn chữ Hán chạm khắc tại nội thất điện Biểu Đức, lăng Thiệu Trị |
Nguồn: hueworldheritage.org.vn |
Không chỉ trong chốn hoàng cung mà ở các biệt cung, hành cung, vườn Ngự uyển... lối trang trí này cũng được áp dụng. Sang thời vua Thiệu Trị, hoàng đế nổi tiếng uyên thâm về Nho học và giỏi thi phú, lối trang trí nhất thi nhất họa, nhất tự nhất họa càng phổ biến, tiêu biểu ở Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng), cung Bảo Định (cung điện riêng của vua Thiệu Trị)... Thậm chí ở các quốc tự như chùa Thiên Mụ, chùa Giác Hoàng, chùa Thánh Duyên cũng sử dụng lối trang trí này. Thời vua Tự Đức (1848 - 1883), do điều kiện đất nước khó khăn, và có lẽ cũng do lấy chữ Khiêm để tự răn mình nên vị hoàng đế được coi là giỏi thơ ca bậc nhất của triều Nguyễn không dùng văn thơ để trang trí các công trình kiến trúc của riêng ông, mà chỉ sử dụng lối trang trí nhất thi nhất họa cho một số công trình trong lăng tẩm của vua cha, tức tại Xương Lăng (lăng vua Thiệu Trị). Truyền thống trang trí nhất thi nhất họa chỉ được nối lại từ thời vua Đồng Khánh (1885 - 1888) tại lăng tẩm của chính vị vua này (Tư Lăng), rồi được các vua Khải Định tiếp tục kế thừa, dù cách thức thể hiện và vật liệu sử dụng đã thay đổi, thể hiện rõ trên lăng vua Khải Định (Ứng Lăng), cung An Định... Đó là cách sử dụng mảnh sành sứ để trang trí trên công trình kiến trúc xây bằng bê tông, sắt thép.
Với số lượng phong phú, văn thơ trên kiến trúc cung đình Huế thể hiện nhiều chủ đề như: ca ngợi vương triều, cảnh thái bình thịnh trị, đất nước độc lập, bờ cõi thống nhất, cảnh đẹp vùng đất đế đô, chia sẻ nỗi niềm với nhân dân... Di sản này có giá trị độc đáo, bởi đây là những bản gốc duy nhất hiện còn ở quần thể di tích cố đô Huế. Hơn nữa, cách sử dụng thơ văn như một hình thức trang trí công trình kiến trúc, kể cả kiểu nhất thi nhất họa trên kiến trúc gỗ hay thi họa xen nhau trên công trình kiến trúc hiện đại ở giai đoạn sau cũng là phong cách hiếm gặp và gần như đã đi vào điển chế của triều Nguyễn. Về nội dung, đây là những cứ liệu lịch sử chân xác, phản ánh tư tưởng một thời đại, một số chính sách của triều đình, phản ánh thế giới quan và nhân sinh quan của tầng lớp vua quan và tài năng của các thi nhân đương thời.
Trong lịch sử xây dựng và tu sửa các công trình từ triều Nguyễn chưa hề có tư liệu nào đề cập đến việc thay đổi, chỉnh sửa hay làm mới hệ thống thơ văn này. Sau khi triều Nguyễn chấm dứt (tháng 8.1945), việc trùng tu, sửa chữa tác động đến các chi tiết trang trí nhất thi nhất họa chưa hề được đặt ra. Các ô hộc văn thơ chữ Hán hiện còn vẫn là nguyên gốc, chưa có sự thay đổi, điều chỉnh hay làm mới. Những năm gần đây, nhiều di tích được trùng tu lớn, các văn tự này được bảo tồn, tôn vinh bằng nhiều giải pháp khoa học tiên tiến.
Hệ thống thơ văn chữ Hán đang được Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế bảo quản cùng với bảo tồn các công trình kiến trúc chứa đựng di sản tư liệu này. Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đang lập hồ sơ đề nghị UNESCO đưa hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế vào danh mục Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới. Nếu trở thành Di sản tư liệu, hệ thống này sẽ được bảo quản bằng công nghệ hiện đại, lưu giữ một kho tàng giá trị của nhân loại.