Cây bồ kếp lá vàng (Phần một)
Truyện ngắn của Ma Văn Kháng
>> Cây bồ kếp lá vàng (Phần cuối)

Lại có thư của Phúng bạn tôi từ Ban Mê Thuật đất Tây Nguyên gửi ra. Lại vẫn là những dòng chữ gần đây bỗng líu ríu nét nọ lần nét kia, viết trên mảnh giấy rìa lờm xờm vết xé từ vở học trò. Cầm thư mà hình dung ông bạn mình vừa từ ngoài đồng ruộng bước vào nhà, đầu vẫn nguyên cái mũ là rộng vành, trên người độc cái quần xà lỏn, uống xong bát nước chè lớn, khoát bàn tay to sều chai sần vì cày cuốc, bảo thằng con út mười ba tuổi đang ngồi học ở góc nhà: "Ê, Cún! cho bố mượn cái bút và cuốn vở, bố viết cái thư nào!". Nếu nhân loại có những tộc người mang tiếng là hay bi quan, như dân ấn Độ, lại có người được tiếng là lạc quan hơn người, như dân La Mã, thì Phúng bạn tôi thuộc hạng người sau.
Lại na ná như thư trước, khoe đất đai tươi tốt, công việc thịnh đạt, đàn địch thì ít động tới, còn thơ ca hò vè thì dăm bữa nửa tháng lại có một bài, nhưng lần này Phúng giục tôi mau mau thu xếp vào chơi. Vào chơi mà xem Phúng đang vào vụ thu hoạch. Vào mà xem cà phê mùa này trĩu trịt cành la cành bổng, thu hái xong ước trên một tấn. Ngô giống mới bắp dài hơn gang tay bẻ về vàng rực cả khoảng sân rộng trước nhà. Bao tải, thúng, địu căng ních, đầy phè rồi mà đậu xanh chưa đập vẫn còn chất mấy đống lớn ngoài hiên. Vào mà xem cả một vạn thước vuông đất đỏ hồng xuê tơi sau mưa bạc trong nắng vàng. Đàn gà ba trăm con, đỏ ối cả vườn cây ăn quả toàn lê, táo, đào, mận, cây nào cũng ngùn ngụt như đám lửa đang bốc ngọn. Cuộc sống rõ ràng như chính lệnh, cây cối, sản vật, muông thú vật nào ra vật ấy, còn con người thì tự hiển lộ, có cảm giác được tôn lên thành đấng bậc, sánh cùng cái lớn lao như vũ trụ, tự nhiên mà chẳng cạnh tranh ai!
Từ miền Bắc, Phúng dắt díu vợ con vào vùng đất Krông Ana này ngay từ sau ngày thống nhất đất nước. Cũng là điều cực chẳng đã mà dấn thân liều lĩnh vào cuộc phiêu du. Cực chẳng đã vì lương anh giáo quèn không nuôi nổi cô vợ trẻ với ba đứa con đẻ ba năm liền. Lại thêm những eo xèo rắc rối, những định kiến chật hẹp trong các mối quan hệ. Còn liều lĩnh là bởi mới chỉ là nghe nói mà tin đó là vùng đất lành, đất vàng đất bạc, chứ đâu đã mục sở thị. Phúc thay cho những kẻ không trông thấy mà vẫn hằng tin! Anh giáo được chia cả một vùng đất rộng hơn hai chục héc ta. Tất nhiên chỉ là đất hoang. Nhưng quả nhiên như trời sinh vạn vật bằng hiếu đễ, đất nuôi vạn vật bằng ăn mặc, thấm thoát trong vòng có dăm năm, cái gia đình anh giáo ấy đã vượt qua cảnh đói nghèo, bước sang thời kỳ thăng hoa, tròn đầy trong no ấm, sởn sơ, dư dả.
Đọc thư Phúng mà mừng cho Phúng. Con người nhất thiết phải được sống trong no đủ cái đã. ấy thế! Nhưng mừng cho bạn mà không khỏi ngờ ngợ. Ngờ ngợ lắm. Vì ông bạn mình, từ thuở thiếu thời sống với nhau, và ngay trong những lá thư nao nức khoe khoang sự thành đạt trong công cuộc làm ăn, nét chữ thì rối rít, ngôn ngữ thì ồn ào, mà cốt cách vẫn không phải là kẻ chí thú làm ăn, vẫn không phải là người để cả tâm lực vào miếng cơm, manh áo, đồng tiền. Ngờ ngợ lắm. Vì cảnh tượng viết trong thư cứ như từ bàn tay vẽ ra, hư thực lẫn lộn, sinh thành nuôi dưỡng nhau, như cái hiện thực thứ hai, sản phẩm của một đầu óc lãng mạn, chứ không phải cảnh đời thật nó là như vậy.
Ngờ ngợ lắm. Vì tháng bẩy năm ấy liên tiếp mấy thư liền. Không kìm giữ được nữa, Phúng cho tôi biết kế hoạch làm ăn mới của mình và ráo riết giục tôi hãy nghĩ lại, hãy bỏ mảnh đất thủ đô chật chội vào đây, chung sức với anh. Hai mươi héc ta đất có sổ đỏ của Phúng sẽ biến thành một trang trại kiêm vùng du lịch sinh thái. Chà! Phúng sẽ chặt hết vườn cây ăn quả. Phúng sẽ nuôi được hai trăm con bò. Phúng sẽ đào hai cái hồ lớn, một cái mười héc ta, một cái năm héc ta. Và theo khoa học, một mét nước cho một cân cá thì sẽ cơ man nào là cá. Nhưng cá ấy không để ăn, không để bán, mà là để nuôi cá sấu. Cá sấu! Trứng cá sấu ấp ba mươi quả, nở hai mươi tám quả. Mà sấu một tháng tuổi giá đã một chỉ vàng một con... Còn một đôi sấu lớn hết cỡ, chừng một sải tay, giá những mười hai cây vàng. Chưa hết! Phúng sẽ trồng tre trên mấy quả đồi. Để trồng tre sẽ thuê máy đào lỗ của Pháp, giá thành chỉ năm trăm đồng, bằng giá một chén trà, một lỗ thôi. Khách du lịch sau khi thăm nơi nuôi cá sấu sẽ về nghỉ dưới bóng tre và thế là:
Ngày xưa theo mẹ hái măng
Giời trồng tre mới phải chăng đỡ sầu.
Cây tre nào cũng cúi đầu
Che sương giá lạnh lá trầu thêm xanh.
Măng non khỏi bị nắng hanh
Bên nhau cùng mọc mai thành bụi to
Cò ơi mày chớ có lo!
Tre ta ấm bụi nhà cò ấm hơn
Rúc ra rúc rích bầy chim.
Võng đưa ta ngủ nổi chìm giấc mơ(*).
Ôi! Những vần thơ mộc mạc, giản đơn mà dồi dào cảm xúc của bạn tôi!
Chúng tôi cùng dạy với nhau ở một trường cấp hai huyện miền núi Xín Chải. Xín Chải, cái tên chẳng gợi một khái niệm rõ rệt, một ấn tượng nào. Nó cũng mờ nhạt như cái trường cấp hai vẻn vẹn ba chục học trò, hai anh giáo cùng một cô giáo tên Dự của chúng tôi. Cô Dự hồi đó tuổi ba mươi, hơn chúng tôi sáu tuổi. Cô người Hà Nam theo gia đình lên đây khai hoang từ đầu những năm sáu mươi. Vóc mập mạp thôn nữ. Nhưng cô có khuôn mặt xinh xắn. Cô dậy thể dục và nữ công. “Các em chú ý. Khi ta uống rượu, rượu vào thẳng trong máu. Thở cũng vậy. Ô xy vào thẳng máu. Xem thế đủ biết thở quan trọng như thế nào”. Đó là bài học cô đã dạy học trò và dạy luôn cả tôi và Phúng. Tôi dạy các môn khoa học xã hội. Phúng dạy các môn khoa học tự nhiên, nhưng Phúng lại là chàng trai khôi ngô, tuấn tú, tài hoa, biết chơi đàn và sáng tác thơ ca. Vóc thấp đậm, vai xuôi. Mặt tròn, mũi cao, mắt sáng, tóc xõa gáy. Ngày đến nhận việc ở trường, vai đeo ba lô, tay Phúng xách hộp đàn violon. A! Nghệ sỹ violon! Phố huyện xôn xao. Chẳng nề hà, cân nhắc điệu đàng, nghệ sỹ ra mắt luôn công chúng tắp lự. Chủ nhật ấy, dân phố và kẻ mua người bán vây quanh cái sân khấu mới dựng ở giữa sân chợ nghe loa phát bản tin cổ động bầu cử Hội đồng Nhân dân hai cấp xong là nghe Phúng cò cử cây nhị Tây bản nhạc Ánh hồng soi sáng chân trời Á châu.
Phố huyện chỉ là hai dẫy nhà gianh áp mặt vào nhau, dài hơn trăm thước. Một cái loa hai nhăm oát mắc ở ngọn cây gạo đầu phố đủ cho cả phố nghe tin tức và tiếng đàn cò cưa của Phúng. Tình thân ái vừa mang tính cổ truyền nơi phố huyện vừa là nền nếp gần gụi trang nhã của nghề dậy học, càng dư thừa điều kiện nẩy nở, nên quan hệ giữa anh giáo và người phố huyện càng mau chóng trở nên thân mật. Thân mật lắm. Thân mật đến mức suồng sã. Đến mức gặp anh giáo đi chơi phố, có thể dúi ngay vào tay anh giáo cái bánh tẻ, phẩm oản, quả chuối hoặc gọi ra một chỗ ghé tai tưởng nói gì quan trọng, hóa ra hẹn chủ nhật này tới mời anh giáo đến đụng một góc cầy tơ. Phúng hoạt bát, quảng giao, hòa hợp với cuộc sống hồn nhiên chất phác nơi huyện nhỏ. Quen thân với tất cả mọi người. Nhiều lần, anh còn mượn được cả ngựa cả súng săn của gia đình học trò đi chơi, đi săn trong rừng.
Phố huyện Xín Chải nhỏ teo. Nhất cử nhất động của mọi nhân vật ở đây đều được nhân lên thành bội số theo quy luật khuếch đại. Trên quả đồi sau phố có cái nhà thờ Kitô giáo đổ nát từ thời Tây, gần đây khi có thêm số giáo dân từ miền biển Nam Định, Thái Bình lên khai hoang mới được dựng lại. Cũng chỉ là một gian nhà gỗ và một tháp chuông nhô cao mái nhọn hoăn hoắt bằng gỗ pơ mu thôi. Nhưng tiếng chuông nhà thờ ngày hai buổi sáng chiều nhắc nhở con chiên đến giờ kinh nguyện cũng theo quy luật khuếch đại, nên sang sảng văng đảo, âm âm, inh inh trong mỗi căn nhà, mỗi hồn người.
Đó là những ngày sống vui vẻ nhẹ nhõm nhất trần đời của chúng tôi. Chẳng vướng bận, lo âu. Cũng chẳng có gì phải khắc khoải dằn vặt. Sáng lên lớp, chiều soạn bài. Tối họp hành với bà con hoặc thăm nom học trò. Cơm ăn ngày ba bữa có Dự nấu giùm. Lương thực thực phẩm được cung cấp theo tem phiếu. Mỗi năm năm mét vải đủ may một bộ cánh mới. Dưới vòm trời phố huyện miền núi, trôi đi trong êm đềm một đời sống tự nhiên thuần phác, xa cách hẳn sự vật lộn nhọc nhằn.
Chủ nhật mỗi tuần là những ngày thần tiên. Leo lên mình hai con ngựa thồ tầm thấp xấu mã và hiền lành, trên vai nghềnh ngàng hai khẩu súng kíp mượn của dân, chúng tôi thoát khỏi lốt những anh giáo xoàng xĩnh phố huyện, biến thành những chàng kỵ sĩ, những trang đại hiệp rong ruổi trong các khu rừng gần xa.
Phúng, tất nhiên là anh chàng khởi xướng ra những công cuộc này. Phúng truyền dẫn sang tôi niềm say mê và tình yêu cuộc sống giữa thiên nhiên. Hóa ra ông trời ăn ở cũng không đến nỗi thiên vị. Mảnh đất xa xăm tưởng là hoang vắng, buồn tẻ mà đâu có thiếu niềm vui. Bồ đề, gu đay, thành ngạnh chen cành nơi vùng rừng thấp vào độ thu sang ràn rạt tiếng vẫy cánh của bầy chim câu béo nục. Trên cao hơn, nơi xa mộc xanh như những bụm khói đặc và các giống thông thơm hắc mùi tinh dầu vu vu gió thổi là nơi con sóc đuôi bông nhảy nhót, chuyền cành. Viền một vệt dài cạnh cái thung lũng hình lá đào là rặng doi cổ thụ mùa này lất phất bay cả nghìn chùm hoa bông trắng ngà hình chiếc đuôi chồn. Buộc ngựa ở cửa rừng, chúng tôi rẽ lau lách, trước hết tìm đến con suối len lỏi giữa hai lèn đá. Giơ súng lên, Phúng lại chúc nòng, xa rời điểm xạ; Trong làn nước trong leo lẻo, có đàn cá chép đỏ hồng đang phất đuôi, múa vây, vô tư lượn lờ, đẹp như tranh vẽ. Ngẩn ngơ một lúc, Phúng lại kéo tôi đi. Tháng bảy trong những thung lũng nhỏ đã quang quẻ bóng lúa, lúc này đang dày đặc bóng con chim cu cặm cụi nhặt thóc rơi. Chim cu đi cả bầy, hàng trăm con. Nhưng từ trên cao nhìn xuống vùng ruộng xam xám màu chân rạ chỉ thấy những cái đầu gật gật và tim chúng tôi dường như thót lại vì chợt vọng lại bên tai tiếng chân bầy chim chuyền vừa hối hả vừa rụt rè trên mặt đất.
Đoàng! Đoàng! Hai phát súng kíp nổ vang khoang trời hẹp, phá vỡ yên tĩnh đang được nâng niu trên cả một vùng núi đồi. Buông súng, ngửa mặt nhìn trời, chúng tôi nhìn thấy những cánh chim vẫy đập loạn xạ, hốt hoảng nghiêng ngả, tròng trành. Lạ thay, bốc bay lên cao, cả trăm con chim vẫn trong tư thế bầy đàn và chỉ sau ít phút khiếp đảm, kinh hồn, đã lấy lại bình tĩnh nhanh chóng tạo thành một vùng lượn mềm mại, rồi quay tròn, cuối cùng đổ nghiêng xuống khu rừng lúp xúp bụi cây tầm thấp ở phía bên kia, đối diện với chúng tôi. “Chúng biến đâu mất rồi!” Nhổm dậy, Phúng kêu khe khẽ rồi đưa mắt kiếm tìm. Hai chúng tôi xách súng lom khom vượt qua mấy tràn ruộng vừa nãy đầy bóng chim. Gặp một bờ ruộng cao, chúng tôi nằm phục xuống, giấu mình và nhận ra bầu trời trên đầu mình bỗng nhiên ắng lặng như cõi vô hồn.
Không! Đàn chim cu không biến đi đâu hết! Cả tôi và Phúng đều đã nhìn thấy chúng. Rìa thung lũng bên kia, cạnh một thửa ruộng lớn ở chân bìa rừng, như từ trong chiêm bao, như được hưởng phép màu nhiệm, một cây bồ kếp cổ thụ vừa hiện ra. Cây bồ kếp thân lớn tày ôm, lá óng ánh sắc vàng kim khí, chóp nhọn đang dang cành mời mọc. Như những con thằn lằn, hai chúng tôi thận trọng bò tới. Rồi không ai bảo ai, chúng tôi cùng bật ngửa người trên mảnh ruộng dưới chân cây bồ kếp nọ. Và lập tức có cảm giác cả hơi thở của mình cũng biến mất trong khoảng khắc. Im lặng đã được đổi lấy im lặng tuyệt đối, vĩnh hằng. Im lặng như cõi vô thanh. Đàn chim cu cả trăm con hiển nhiên đã biến thành tượng đá, ngậm mỏ, im phắc trong sự chở che hào hiệp quạnh hiu và bí ẩn của cây bồ kếp già trông xa hệt hình kim tự tháp nhưng long lanh ánh vàng.
Ôi! Chúng tôi vừa bắt gặp điều siêu thường, xuất thế. Hòa tan vào cảnh quan kỳ lạ, trong trạng thái tôn thờ, ngưỡng vọng, chúng tôi đã bắt gặp cái phân tâm của tâm hồn mình. “Cây gì mà đẹp đẽ, lạ lùng đến thế kia! Domine non sum dignus. Ôi! Đức chúa trời, con không xứng đáng!” Mắt khim khíp, môi Phúng bỗng lật bật run rẩy. Một hạnh phúc ngoài trần thế và cao siêu, đã đạt tới là đây và thế là chẳng còn gì để nói với thời gian nữa rồi ư? Đó là những ngày Phúng bắt đầu yêu, và được yêu.
*
Khoảng khắc thần tiên ấy thật sự khó hiểu với hệ diễn giải thông thường và mong manh quá. Vì chẳng bao giờ, chúng tôi còn gặp lại được nó nữa rồi. Chủ nhật sau đó, Phúng dậy sớm, nháy mắt bảo tôi: “Tớ đi đằng này cái nhé”. Rồi xách cái hộp đàn đựng cây violon đi. Buổi trưa, Dự lên buồng tôi, vẻ hớt hải khác thường:
- Anh có biết Phúng đi đâu không?
- Chắc là đến một gia đình học sinh nào.
- Học sinh nào?
- Hay là đến nhà cô Tâm ở xóm Tân Lập?
- Tâm!
Mặt Dự tái nhợt. Chỏm gò mũi Dự lấm tấm mồ hôi. Tình yêu như rượu, như ô xy hít thở vào thẳng mạch máu, tác động ngay đến cơ thể con người. Dự từ lâu đã thầm yêu Phúng. Cô giáo không thể chịu đựng nổi khi ở lớp Phúng dậy xuất hiện một nữ sinh như Tâm. Tâm ở trong đám học sinh từ Hải Hậu, Nam Định lên khai hoang mới nhập học. Một thiếu nữ đã nẩy nở trọn vẹn ở tuổi mười bẩy. Dong dỏng cao. Mái tóc dài óng mượt. Gương mặt trái xoan với cặp mắt nai hay nhìn xuống, cho ta ấn tượng đậm đà về vẻ nhu mì, mộ đạo, khác hẳn cái cảm tưởng khi ta nhác thấy cây thập tự bằng bạc buông từ cái cổ nõn nà xuống khuôn ngực trinh nữ tròn trịa nén căng nhục cảm sau làn áo màu mận tím của cô.
Ngồi xuống, thở hắt ra, cô giáo ôm mặt nức nưởi:
- Không đến nhà Tâm, nhưng cũng là đến với Tâm. Anh Phúng anh ấy đến kéo đàn ở nhà thờ đấy, anh ơi!
Dừng lại, rồi ngoảnh mặt đi, nước mắt chan chan, Dự nghẹn ắng:
- Em sợ nhất là anh Phúng chấp nhận làm lễ cưới Tâm ở nhà thờ. Ở huyện này, ai người ta cho phép thế! Anh ấy dại dột mà không biết mình dại dột, anh ơi.
______________
(*) Thơ của Trần Ngọc Phúc, bạn tác giả.