Quy định cụ thể chính sách khai thác tận thu để tạo đột phá
Chiều 25.10, phát biểu tại hội trường về Dự án Luật Dầu khí (sửa đổi), ĐBQH Nguyễn Tâm Hùng (Bà Rịa - Vũng Tàu) cơ bản thống nhất với dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) gồm 11 Chương và 69 Điều. Đồng thời nhấn mạnh: Dự thảo Luật chuẩn bị khá công phu, đã chỉnh lý, tiếp thu nhiều ý kiến chất lượng.
Tuy vậy, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng cũng cho rằng: Hoạt động dầu khí có tính chất đặc thù do tính rủi ro cao, tại thời điểm ký kết hợp đồng chưa thể lường hết được các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả tìm kiếm thăm dò dầu khí, phát triển mỏ dầu khí và khai thác dầu khí. Đại biểu cho rằng, các quy định điều chỉnh liên quan đến mỏ dầu khí tận thu và các quy định về chính sách ưu đãi trong lĩnh vực dầu khí nói chung và mỏ tận thu nói riêng tại Điều 55 là một điểm quan trọng, đột phá của Dự thảo Luật lần này.
Bởi, thời điểm hiện nay, một số mỏ dầu khí, các lô dầu khí sản lượng đã giảm hoặc hết hạn hợp đồng hoặc nhà thầu chấm dứt hợp đồng sớm dẫn đến việc suy giảm về hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về hoạt động này nên việc triển khai các dự án để tận thu nguồn tài nguyên quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, các cơ chế ưu đãi để thu hút đầu tư không còn thực sự hấp dẫn so với các nước trong khu vực nên đây là rào cản cho các đối tác muốn đầu tư vào hoạt động dầu khí tại Việt Nam.
Vì vậy, để tiếp tục hoạt động khai thác, tận thu mỏ dầu khí, thực sự nâng cao hiệu quả kinh tế và đóng góp vào ngân sách nhà nước đối với việc khai thác các mỏ này, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng nhấn mạnh: cần có quy định thật cụ thể, luật hóa chính sách khai thác tận thu đặc thù, phân biệt với cơ chế phân chia sản phẩm và nguyên tắc thu hồi chi phí của hợp đồng chia sản phẩm dầu khí.
Cần làm rõ các nội hàm khái niệm
Về phê duyệt hợp đồng dầu khí, quyền, nghĩa vụ của Tập đoàn dầu khí, ĐBQH Nguyễn Tâm Hùng thống nhất với nội dung nêu tại Điều 26 Dự thảo Luật. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các nội dung chính của hợp đồng dầu khí, bảo đảm tính chất đặc thù có liên quan đến quốc phòng, an ninh, chủ quyền, môi trường, mặt biển, đất đai; tiếp tục rà soát, bảo đảm quy định rõ ràng, minh bạch, chặt chẽ, đồng thời, theo đúng tinh thần phân cấp và cải cách thủ tục hành chính. Đồng thời, để bảo đảm thống nhất và tính khả thi trong quá trình thực hiện, Điều 29 đã quy định về các loại hợp đồng dầu khí, trong đó có đề cập hợp đồng dầu khí điển hình là hợp đồng phân chia sản phẩm và Điều 30 của Dự thảo Luật đã quy định cụ thể về các nội dung chính của hợp đồng dầu khí. Tuy nhiên, để khung pháp lý được hoàn chỉnh hơn, kính đề nghị Quốc hội và Ban soạn thảo rà soát, xem xét một số nội được quy định tại Điều 61, 62, 63 của Dự thảo Luật, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam được giao để thực hiện một số chức năng quản lý Nhà nước về dầu khí. Đồng thời, Điều 66 đã quy định tương đối chi tiết về quyền và nghĩa vụ của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi, hạn chế tối đa chồng chéo trong quá trình thực hiện, đề nghị quy định rõ và tách biệt vai trò của Cơ quan đại diện Chủ sở hữu Nhà nước (Ủy ban Quản lý vốn nhà nước) trong quá trình phê duyệt giai đoạn/hoạt động dầu khí nhằm đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa quản lý nhà nước trong lĩnh vực dầu khí và quản lý vốn nhà nước.
Ngoài ra, việc quy định rõ như nêu trên sẽ hỗ trợ nhà thầu dầu khí trong quá trình thực hiện chuyển nhượng quyền lợi tham gia, quyền và nghĩa vụ của Nhà thầu trong hợp đồng dầu khí, đặc biệt khi đơn vị chuyển nhượng hoặc nhận chuyển nhượng là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam hoặc doanh nghiệp 100% vốn của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, vì thực tế nếu là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam hoặc doanh nghiệp 100% vốn của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chuyển nhượng hoặc nhận chuyển nhượng quyền lợi tham gia sẽ phải tuân theo Luật Quản lý vốn nhà nước và Luật Dầu khí. Theo đó,theo quy định của Luật Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, khi bán tài sản dầu khí, đồng thời với việc tổ chức chào thầu cạnh tranh, PVN phải mời tổ chức độc lập đánh giá xác định giá trị khởi điểm của tài sản dầu khí - việc này là không khả thi vì không có tổ chức tư vấn Việt Nam nào có thể thực hiện được việc này.
Liên quan đếnquyết toán chi phí cho hoạt động dầu khí, Điều 57 Dự thảo luật quy định “Quyết toán chi phí đối với hoạt động dầu khí theo hợp đồng dầu khí được nhà thầu tiến hành.... khi kết thúc dự án dầu khí, dự án thành phần của dự án dầu khí”. Tuy nhiên, Dự thảo Luật không có giải thích “Dự án thành phần”, trong khi đó định nghĩa “Dự án dầu khí” tại Điều 3 Dự thảo hiện nay đang khá đơn giản nên chưa thể hiện được Dự án dầu khí bao gồm những dự án nào, được hình thành như thế nào và thực hiện thông qua hình thức pháp lý gì?
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng đề nghị xem xét bổ sung để làm rõ hơn nội hàm của khái niệm này để có cơ sở triển khai quyết toán chi phí, cụ thể: “Dự án dầu khí là dự án độc lập hoặc tập hợp của nhiều dự án thành phần, gồm dự án tìm kiếm thăm dò dầu khí (kể cả thăm dò bổ sung hoặc mở rộng), dự án phát triển mỏ dầu khí, dự án khai thác tận thu dầu khí hoặc dự án khác được hình thành tùy thuộc vào tính chất, nội dung, loại hình hoạt động dầu khí dự kiến sẽ thực hiện theo hợp đồng dầu khí đã ký”.