Cần giải pháp và lộ trình cụ thể giải quyết đất sản xuất cho hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn
Phó vụ trưởng Vụ Chính sách Dân tộc, Ủy ban Dân tộc Nguyễn Văn Xuân cho rằng việc giải quyết đất sản xuất đối với khu vực vùng dân tộc và miền núi là một vấn đề nan giải, không thể giải quyết dứt điểm trong một vài năm tới. Do vậy cần có các giải pháp và lộ trình cụ thể cho từng khu vực và đặc thù từng dân tộc.
Tăng thêm diện tích đất sản xuất cho hộ nghèo, hỗ trợ khai hoang, phục hoá
Hệ thống chính sách giải quyết khó khăn về đất sản xuất, tạo tư liệu sản xuất, góp phần ổn định đời sống và phát triển sản xuất cho đối tượng hộ nghèo vùng miền núi, đặc biệt khó khăn được đánh giá là một trong nhiều chính sách nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ người thụ hưởng chính sách. Trong đó phải kể đến Quyết định 134/2004/ QĐ – TTg; chính sách giải quyết đất cho đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định 132, QQH 304/2006/QĐ – TTg, chương trình 135 giai đoạn I,II… Ngoài ra còn có chủ trương giao đất, khoán rừng; điều chỉnh lại quy mô diện tích 3 loại rừng theo hướng quy hoạch từ loại rừng: rừng đặc dụng, rừng khoanh nuôi, rừng phòng hộ để dành đất bố trí cho đồng bào phát triển sản xuất; chính sách sắp xếp đổi mới Nông, Lâm trường để khắc phục việc sử dụng đất không có hiệu quả, chuyển giao một phần đất của Nông, Lâm trường cho đồng bào làm đất canh tác… Tất cả đã tạo điều kiện cho đồng bào nghèo ở vùng dân tộc, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn tăng thêm diện tích đất sản xuất, hỗ trợ khai hoang, phục hóa, góp phần giải quyết khó khăn về tư liệu sản xuất và tình trạng thiếu lương thực, thiếu việc làm ở nông thôn miền núi.
Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, sau 4 năm thực hiện Quyết định 135 đã có 85.563 hộ, với diện tích đất sản xuất 27.763 ha; đạt 34% so với tổng số hộ cần được hộ trợ; 11.360 hộ với khoảng 16.925, 4 ha các hộ dân ở ĐBSCL được hỗ trợ theo quyết định số 74/2008/ QĐ – TTg; tỉnh Sơn La được hỗ trợ 594 hộ với 67 ha đất sản xuất đạt 9,8%, tỉnh Gia Lai đã giải quyết cho 2.157 hộ với 1.101,28 ha... Tuy đây chỉ là những con số khiêm tốn so với yêu cầu đặt ra của các đề án , song đây là những con số hết sức có ý nghĩa đối với những chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
Thực tế viêc giải quyết đất thực hiện là một trong những vấn đề phức tạp từ khâu xác định đối tượng, xác định quỹ đất, phương án đền bù, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Trưởng ban dân tộc HĐND tỉnh Gia Lai A Yun H Bút chia sẻ để đánh giá hiệu ứng xã hội của một chính sách được triển khai trong một thời gian chưa lâu là khó nhưng đồng bào rất phấn khởi. Đó là điều đáng ghi nhận cũng là điều nằm trong sự mong đợi của từ các chính sách an sinh xã hội. Tỉnh Gia Lai đã tổ chức giám sát chuyên đề về thực hiện QĐ 134 .Qua giám sát đã cho thấy hầu hết ở các địa phương đã linh hoạt giải quyết đất cho bà con bằng nhiều hình thức, trong đó có nhiều nơi thực hiện bằng cách vận động dòng họ sang nhường cho người thiếu đất như ở Krông Pa, Chư sê, K Bang…
Tuy nhiên, điểm lại các chương trình đề án được triển khai thì thấy một vấn đề nổi lên là thiếu sự kết dính giữa quy hoạch sản xuất với quy hoạch dân cư và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất cho đồng bào dân tộc tại chỗ để bảo đảm ổn định cuộc sống cho người dân. Phó trưởng Ban dân tộc tỉnh Yên Bái Dương Văn Thủy cho biết công tác quy hoạch sử dụng đất thực hiện rất chậm, phần lớn cấc xã vùng cao chưa có quy hoạch sử dụng đất; nơi đã có quy hoạch thì việc thực hiện quy hoạch chưa được triển khai, thực hiện kịp thời theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt.
Mở rộng, giao thêm đất sản xuất phải gắn với quy hoạch dân cư, ổn định đời sống của đồng bào
Theo đánh giá của Bộ NN và PTNT hiện các địa phương mới tập trung vào tập trung vào đất khai hoang , chưa xây dựng các công trình thủy lợi, giao thông, chưa kịp thời triển khai công tác khuyến nông, khuyến nông hướng dẫn sản xuất cho đồng bào. Đất giao cho đồng bào phần lớn là đất rẫy, đất xấu, trong khi đó việc đầu tư thủy lợi nhỏ chưa được triển khai và đồng bào thì không có vốn, trình độ canh tác lạc hậu. Đó là chưa kể đến một số địa phương không còn quỹ đất dự phòng, việc điều chỉnh từ hộ thừa đất so với quy định sang hộ còn thiếu đất gặp nhiều khó khăn.
Chính vì thế không thể tiếp tục cách làm truyền thống như khai hoang, chuyển đổi cây trồng. Điều quan trọng nhất là phải tính đến quy hoạch sản xuất, quy hoạch dân cư với sự phân loại cụ thể như: hộ thực sự có nhu cầu về đất để sản xuất; hộ có nhu cầu về giao rừng, khoán rừng; hộ có nhu cầu phát triển chăn nuôi, dịch vụ, ngành nghề; hộ có nhu cầu làm công nhân trong các doanh nghiệp nông nghiệp. Phó vụ trưởng Vụ Chính sách Dân tộc, Ủy ban Dân tộc Nguyễn Văn Xuân cho rằng việc giải quyết đất sản xuất đối với khu vực vùng dân tộc và miền núi là một vấn đề nan giải, không thể giải quyết dứt điểm trong một vài năm tới. Do vậy cần có các giải pháp và lộ trình cụ thể cho từng khu vực và đặc thù từng dân tộc. Theo đó, các địa phương phải chủ động lên phương án đề xuất chính sách hỗ trợ cho các đối tượng còn thiếu đất, những địa phương không còn quỹ đất để giao hoặc đất không có khả năng canh tác. Để làm được điều này các địa phương cần khẩn trương xây dựng quy hoạch sản xuất, quy hoạch dân cư, quy hoạch phân loại các quỹ đất.
Có một thực tế là các địa phương chưa thực sự coi trọng vấn đề này . Đại diện UBND tỉnh Yên Bái cho biết, việc thực hiện quy hoạch ở địa phương còn rất chậm, hầu như các xã chưa có quy hoạch hoặc có nhưng chưa đạt yêu cầu. Do không được đo đạc chi tiết để lập hồ sơ giao đất mà chỉ sử dụng bản đồ nền tỷ lệ 1/25.000 để khoanh vẽ nên đã xảy ra không ít vụ tranh chấp, đặc biệt giữa nông trường và người dân. Từ công tác rà soát quy hoạch sẽ có từng biện pháp, chủ trương cụ thể đối với từng loại đất; gắn liền với từng loại đất là quy hoạch dân cư và quy hoạch xản xuất. Đó là một chuỗi các quy hoạch được gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên sự thống nhất trong sự phát triễn. Chẳng hạn đối với những địa phương không còn quỹ đất khai hoang thì giao khoán bảo vệ rừng, chuyển đổi sang hoạt động dịch vụ như hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, xuất khẩu lao động hoặc hỗ trợ bằng các hình thức mua sắm nông cụ, máy móc, làm dịch vụ sản xuất nông nghiệp. Nơi còn quỹ đất khai hoang thì cần gắn với các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, vật tư sản xuất, hướng dẫn cách làm ăn
Bên cạnh việc chú trọng các quy hoạch đất, dân cư, sản xuất cần nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số như thu hút lao động vào các doanh nghiệp, chuyển đổi nghề phi nông nghiệp, lao động xuất khẩu… đồng thời tuyên truyền sâu rộng các chủ trương chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước đến từng người dân, qua đó nâng cao nhận thức của đồng bào về chính sách giải quyết đất sản xuất góp phần dần dần từ bỏ những tư tưởng ỷ lại, tự bằng lòng với cuộc sống hiện tại, trông chờ vào Nhà nước, vươn lên xoá đói giảm nghèo.