Cần có một văn bản Hiến pháp tốt hơn

Ts Nguyễn Huy Tính
Phó chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Ninh
02/06/2013 08:30

Nghiên cứu văn bản sửa đổi Hiến pháp 1992, chúng tôi thấy có nhiều ưu điểm, những vấn đề cốt lõi nhất của một quốc gia dân tộc đã được đề cập như: Chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về kinh tế, về văn hóa, xã hội, về bộ máy Nhà nước… Dự thảo đưa ra một số hiến định mới: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán Nhà nước - là cần thiết và tích cực. Kỹ thuật lập hiến, bố trí chương, mục, điều, khoản nhìn chung là rõ ràng, hợp lý.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, vẫn đọng lại cảm nhận bản sửa đổi Hiến pháp chưa hoàn thiện và nếu có sự quan tâm hơn nữa thì chất lượng sẽ tốt hơn. Chúng tôi xin nêu một số ý kiến sau đây:

Thứ nhất: Bản dự thảo Hiến pháp hơi dài, nhất là Lời nói đầu, Chương I, Chương II, Chương III và Chương V; các chương này nên rút gọn, để sao cho Hiến pháp chỉ khoảng 20 - 25 trang giấy A4 là vừa. Ngôn ngữ, cách hành văn Hiến pháp 1946 khá rõ ràng, ngắn gọn được nhiều người đọc đánh giá tốt, có thể xem xét, vận dụng.

Thứ hai: Về Điều 4, vai trò lãnh đạo của Đảng: chúng tôi tán thành cao như dự thảo, vì đã cơ bản thể hiện được vị trí, vai trò, bản chất, trách nhiệm của Đảng trước quốc gia dân tộc và nhân dân. Song, nhân đây tôi xin đề nghị: sau khi Điều 4 và Hiến pháp được thông qua, Đảng cần tập trung đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới, bổ sung và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội; xác định rõ và cụ thể hơn nhiệm vụ và quyền hạn của các cấp ủy Đảng từ trung ương đến cơ sở; tăng cường hơn nữa dân chủ, công khai, minh bạch trong các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quyết định của cấp ủy Đảng các cấp, đề cao tính chịu trách nhiệm của Bí thư các cấp ủy Đảng; tạo điều kiện và cơ chế tích cực hơn để nhân dân giám sát các hoạt động của Đảng và Đảng viên… Theo tôi, đây là những vấn đề rất cần và quan trọng đang đặt ra cho Đảng ta lúc này, và đổi mới theo hướng như vậy, cộng với bản lĩnh chính trị vững vàng và kiên định sự lãnh đạo của mình trước những khó khăn, thử thách thì Đảng mới thực hiện tốt vai trò lãnh đạo như Điều 4 đã đề cập.

Thứ ba: Trong dự thảo có Điều 9 về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều 10 về Công đoàn Việt Nam, nhưng không nói gì đến các tổ chức chính trị - xã hội khác như: Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Cựu chiến binh - là những tổ chức đại diện cho các lực lượng xã hội đông đảo nhất, có bộ máy từ trung ương đến cơ sở xã, phường, thị trấn, tồn tại nhiều chục năm qua là chưa thỏa đáng. Tôi đề nghị ghép 2 Điều 9 và Điều 10 thành một điều là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội và trình bày theo thứ tự: mỗi tổ chức một khoản, từ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Công đoàn Việt Nam - Đoàn TNCS Hồ Chí Minh - Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Hội Nông dân Việt Nam - Hội Cựu chiến binh Việt Nam; trong đó, mỗi tổ chức trên chỉ cần nêu: vị trí, địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản để làm căn cứ cho luật định đối với từng tổ chức.

Thứ tư: Về bộ máy Nhà nước, từ Chương V đến Chương X dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, cần chú ý nhiều vì:

- Một số chương quy định chi tiết dẫn đến dự thảo bị dài, nhất là Chương V về Quốc hội; sự phân công, phân cấp, phân nhiệm và đặc biệt là việc phối hợp hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước cùng cấp, giữa trung ương và địa phương còn chưa rõ ràng, mạch lạc, thiếu quy định có tính nguyên tắc; quan điểm tăng cường kiểm soát quyền lực Nhà nước để tránh lạm quyền chưa được thể hiện nhiều trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.

Vì vậy, tôi xin đề nghị:

- Các chương về Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chính quyền địa phương và Chương X về Hội đồng hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia và Kiểm toán Nhà nước cần thống nhất một nguyên tắc viết, đó là chỉ nêu: Tổ chức, (con đường hoặc phương thức hình thành tổ chức đó) vị trí, vai tròđịa vị pháp lý chức năng  nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của từng tổ chức làm cơ sở và căn cứ để luật định đối với từng tổ chức sau này; trong đó vị trí, vai trò, địa vị pháp lý và chức năng cần được xác định rõ và đầy đủ ngay trong Hiến pháp.

- Điểm mới của dự thảo Hiến pháp lần này là đã quy định Quốc hội là cơ quan lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Song, đối với Viện kiểm sát nhân dân thì chưa được quy định như vậy, tôi đề nghị xem xét quy định thêm: Viện kiểm sát nhân dân cũng là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời ngoài thực hiện hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay, cần bổ sung chức năng mới cho Viện kiểm sát là: thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật (kiểm sát chung) như Hiến pháp 1980 đã từng quy định.

- Về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng Bầu cử Quốc gia, Kiểm toán Nhà nước - là những thiết chế độc lập góp phần kiểm soát quyền lực Nhà nước, cần được bổ sung thêm các quy định có tính độc lập, tính chịu trách nhiệm và thực quyền hơn, có khả năng tài phán chứ chỉ tư vấn thì hiệu quả hoạt động sẽ không cao.

- Cần tăng cường kiểm soát quyền lực Nhà nước, nhất là kiểm soát quyền lực của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp từ trung ương đến địa phương; bổ sung các quy định cụ thể có tính nguyên tắc và cơ chế trong phối hợp công tác giữa các cơ quan Nhà nước: Quốc hội - Chủ tịch nước - Chính phủ - Viện kiểm sát nhân dân  - Tòa án nhân dân, sao cho quyền ra quyết định, thực thi, giám sát mà kiểm chế lẫn nhau cùng hoạt động nhịp nhàng và hiệu quả.

Thứ năm: Chính quyền địa phương - đây là chương có nhiều ý kiến đóng góp nhất và đa số cho rằng chương này viết chưa chuẩn, cơ cấu, nội dung chưa hợp lý, chưa tương xứng với vai trò của nó và chưa sát với thực tế trong khi có khá đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định và thể hiện, các ý kiến chủ yếu xoay quanh:

- Dự thảo chưa làm rõ chính quyền quyền địa phương gồm tổ chức nào, mấy cấp;

- Đặc biệt là để mở việc thành lập HĐND, UBND ở các đơn vị hành chính như dự thảo là không xác đáng, dễ dẫn đến vận dụng tùy tiện, thậm chí vi hiến.

- Tổ chức, vai trò, địa vị pháp lý, chức năng và nhiệm vụ quyền hạn cơ bản của HĐND, UBND thể hiện trong dự thảo còn đơn giản, chưa chuẩn, chưa thuyết phục.

Tôi xin đề nghị thể hiện chương này như sau:

1. Các đơn vị hành chính: giữ nguyên như Khoản 1 Điều 115 bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, cụ thể là: Các đơn vị hành chính lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:

Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;

Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường, xã; quận chia thành phường.

2. Chính quyền địa phương gồm 3 cấp: Cấp tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện); cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).

3. Chính quyền địa phương gồm: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (nên đổi từ Ủy ban nhân dân sang Ủy ban hành chính sẽ chuẩn hơn); Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được thành lập ở tất cả các đơn vị hành chính - đây là nguyên tắc cần được khẳng định và hiến định ngay trong Hiến pháp.

4. Về Hội đồng nhân dân:

- Vai trò, địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân giữ nguyên như điểm 1, khoản 1, Điều 116 dự thảo, cụ thể là: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

- Hội đồng nhân dân có 3 chức năng sau:

+ Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và tình hình thực tế địa phương, Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết quy định cơ chế, chính sách, biện pháp có tính đặc thù của địa phương để thực thi hiến pháp và pháp luật trên địa bàn.

Chức năng trên quan trọng và cần thiết vì nó phù hợp với quan điểm phân cấp, phân nhiệm, phát huy tính tự quản, tự quyết, tự chịu trách nhiệm, khơi dậy tính năng động, sáng tạo, khai thác tiềm năng, thế mạnh vốn có của từng địa phương. Thực tế những năm qua cho thấy, địa phương nào phát triển tốt, phát triển mạnh, thường có những cơ chế chính sách mới, phù hợp, tích cực…

+ Chức năng quyết định các vấn đề lớn, nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trật tự của địa phương.

+ Giám sát hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban HĐND, của UBND, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND, việc thực hiện và tuân thủ theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang và của công dân trên địa bàn.

- Nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của Hội đồng nhân dân:

+ Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân thể hiện trong tất cả các lĩnh vực: Kinh tế - ngân sách; Văn hóa - xã hội; Pháp chế, quốc phòng, an ninh, trật tự.

+ Bầu ra Thường trực HĐND, các Ban HĐND, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Thường trực, lãnh đạo các Ban HĐND. Cơ cấu tổ chức, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thường trực và các Ban của HĐND do luật định.

+ Bầu ra UBND cùng cấp - cơ quan chấp hành của HĐND, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó chủ tịch và các thành viên khác của UBND.

+ Phối hợp công tác với Ủy ban MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và các bên liên quan.

  Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND từng cấp do luật định.

- Nhiệm kỳ của mỗi khóa HĐND theo nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm.

5. Về đại biểu Hội đồng nhân dân:

Thống nhất như Điều 117 và Điều 118 sửa đổi Hiến pháp 1992, song đề nghị:

- Gộp 2 điều 117 và 118 thành một điều gồm các khoản, điểm, cụ thể là:

+ Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương; phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của HĐND, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

+ Đại biểu HĐND có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của HĐND, động viên nhân dân tham gia quản lý Nhà nước.

+ Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của UBND, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng các cơ quan thuộc UBND. Người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND hoặc trả lời bằng văn bản.

+ Đại biểu HĐND có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.

6. Về Ủy ban nhân dân:

Viết như dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là chưa ổn, chưa tương xứng với vai trò, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân, thiếu hẳn căn cứ để luật định về sau. Vì vậy, đề nghị giữ nguyên Điều 123 và 124 Hiến pháp 1992, cụ thể là:

Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Ủy ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của Ủy ban nhân dân.

Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Ủy ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân và các văn bản sai trái của Ủy ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó.

 Đề nghị bổ sung: Nhiệm kỳ của mỗi khóa UBND theo nhiệm kỳ của HĐND.

7. Về phối hợp hoạt động của HĐND và UBND với Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội thống nhất với điều 119 dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, cụ thể là:

Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự kỳ họp HĐND và được mời tham dự Hội nghị UBND cùng cấp khi bàn bạc các vấn đề có liên quan.

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội; lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Cần có một văn bản Hiến pháp tốt hơn
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO