Cần cơ chế mạnh phát triển nhà ở xã hội
Hoàn toàn tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết để thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về phát triển nhà ở xã hội, tại phiên thảo luận Tổ 3, sáng 21/5, các ĐBQH tỉnh Hà Tĩnh, Hải Dương và Ninh Thuận cho rằng: việc hiện thực hóa mục tiêu này đòi hỏi các cơ chế mạnh, thiết thực, khả thi và sát thực tiễn. Đặc biệt là với các đối tượng yếu thế, cán bộ, công chức, viên chức đang chịu tác động từ quá trình sáp nhập các đơn vị hành chính.
Tạo động lực thực chất phát triển quỹ nhà ở xã hội
Phát biểu tại tổ, đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn (Hải Dương) đồng thuận cao đối với sự cần thiết ban hành Nghị quyết nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển nhà ở xã hội. Đại biểu cho rằng: “Đây là một chính sách mới, có chiều sâu, liên quan trực tiếp đến nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội. Do đó, cần thiết bổ sung các quy định cụ thể nhưng đồng thời cũng phải bảo đảm tránh nguy cơ lạm dụng trong quá trình triển khai”.

Nhấn mạnh sự cần thiết quy định về Quỹ phát triển nhà ở quốc gia tại Điều 4 của dự thảo, song đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn đề nghị rà soát kỹ mối quan hệ giữa Quỹ này với các quy định hiện hành của Luật Ngân sách Nhà nước, nhất là về nguồn thu, cơ chế quản lý và sử dụng, để bảo đảm tính hợp pháp và khả thi. Đồng thời, Chính phủ và cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu, làm rõ hơn các tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư – bảo đảm lựa chọn đúng những doanh nghiệp có năng lực, kinh nghiệm và uy tín trong thực hiện dự án nhà ở xã hội.
Từ thực tiễn khảo sát và làm việc với các cơ quan liên quan, đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn cho biết chất lượng nhiều dự án nhà ở xã hội hiện nay còn thấp. Do đó, việc nâng cao năng lực và trách nhiệm của nhà đầu tư là một trong những vấn đề then chốt. “Cần tránh tình trạng đầu tư theo phong trào, làm cho có, chất lượng thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và tâm lý của người dân”, đại biểu nhấn mạnh.
Góp ý tại khoản 7 dự thảo Nghị quyết về quy định nguồn vốn, đại biểu Trần Đình Gia (Hà Tĩnh) nêu rõ: theo đề xuất, nguồn vốn phát triển nhà ở xã hội, bao gồm vốn đầu tư công trung hạn, vốn ODA, tài trợ, tín dụng đầu tư phát triển, vốn từ Quỹ phát triển nhà ở, đất đai, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và các nguồn hợp pháp khác. Đại biểu đề nghị cần tiếp tục rà soát kỹ các nội dung này để bảo đảm sự thống nhất với Luật Ngân sách Nhà nước và các quy định pháp luật liên quan.
.jpg)
Về chính sách ưu đãi thuế, đại biểu Trần Đình Gia đề nghị làm rõ loại hình nhà ở nào được áp dụng chính sách ưu đãi, là nhà ở xã hội nói chung hay chỉ nhà ở công vụ? Nếu áp dụng cho tất cả các loại hình nhà ở xã hội (gồm cả nhà ở cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động), cần cân nhắc thêm để tránh làm thu hẹp phạm vi và đối tượng được thụ hưởng. Trường hợp chỉ áp dụng với nhà ở công vụ, cần quy định rõ để tránh hiểu nhầm khi triển khai thực tế.

Bên cạnh đó, đại biểu cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc ban hành cơ chế kiểm tra, đánh giá và kiểm định chất lượng công trình sau khi hoàn thành. “Thực tế hiện nay, chất lượng một số dự án nhà ở xã hội vẫn còn một khoảng cách nhất định so với các loại hình nhà ở khác. Điều này đã được cử tri nhiều nơi phản ánh. Do đó, bên cạnh cơ chế ưu đãi, cần xác lập rõ vai trò giám sát, kiểm tra, hậu kiểm để bảo đảm chất lượng công trình, tránh ảnh hưởng đến đời sống người dân”, đại biểu Trần Đình Gia nhấn mạnh.
Đại biểu cũng đề nghị điều chỉnh thời điểm hiệu lực của Nghị quyết thay vì từ ngày 1/5/2025 như dự thảo, nên lùi lại thành ngày 1/7/2025 nhằm tạo điều kiện chuẩn bị tốt hơn cho việc triển khai trong thực tiễn. Đồng thời, vẫn đáp ứng được mục tiêu phát triển nhà ở xã hội mà Nghị quyết hướng đến.
Ổn định chỗ ở cho cán bộ, công chức, viên chức chuyển công tác
Liên quan đến điều kiện thụ hưởng chính sách nhà ở xã hội đối với cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh sắp xếp đơn vị hành chính, đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Ninh Thuận) cho rằng: việc Quốc hội xây dựng Nghị quyết thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội hiện nay rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh đang tiếp tục thực hiện việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Điều này đáp ứng kỳ vọng của nhóm đối tượng thu nhập thấp, trung bình, nhất là cán bộ, công chức phải di chuyển về công tác tại trung tâm hành chính tỉnh mới.

Tuy nhiên, đại biểu bày tỏ băn khoăn với quy định tại khoản 2, Điều 9 của dự thảo, cụ thể: “Trường hợp đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở có địa điểm làm việc cách xa nơi có nhà ở thuộc sở hữu của mình thì điều kiện về nhà ở để được mua, thuê mua nhà ở xã hội gần địa điểm làm việc là chưa được mua hoặc thuê mua nhà ở xã hội, chưa được hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở, chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình; trường hợp có nhà ở thuộc sở hữu của mình, khoảng cách ngắn nhất từ nơi có nhà ở thuộc sở hữu của mình đến địa điểm làm việc phải từ 30km trở lên”.
Theo đại biểu, quy định này dẫn đến cách hiểu rằng: nếu cán bộ, công chức đã từng được hưởng chính sách mua hoặc thuê mua nhà ở xã hội thì sẽ không đủ điều kiện tiếp tục mua hoặc thuê mua nhà ở xã hội khi di chuyển đến nơi công tác mới, dù khoảng cách từ nơi ở cũ đến nơi làm việc mới là từ 30km trở lên. Trong khi đó, người đã có nhà ở thương mại thì lại đủ điều kiện nếu khoảng cách tương tự.
Đại biểu cho rằng, như vậy là chưa công bằng và không phản ánh đúng tinh thần hỗ trợ người thực sự khó khăn. Bởi lẽ, để có thể mua được nhà ở xã hội, cán bộ, công chức, viên chức đã phải thuộc diện khó khăn và trải qua các điều kiện chặt chẽ. Họ cũng thường phải vay mượn và chịu ràng buộc pháp lý khi muốn chuyển nhượng nhà ở xã hội (theo điểm d, đ, e khoản 1 Điều 89 Luật Nhà ở). Như vậy, họ thực sự là đối tượng đang khó khăn về nhà ở.
.jpg)
Khi chuyển đến trung tâm hành chính mới, cách xa nhà cũ trên 30km, lại không được tiếp tục thụ hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội thì thực tế họ đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến việc ổn định cuộc sống và yên tâm công tác lâu dài tại nơi làm việc mới”, đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương phân tích.
Từ thực tế đó, đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương đề nghị điều chỉnh quy định tại khoản 2, Điều 9 theo hướng bổ sung rõ nội dung: trường hợp có nhà ở thuộc sở hữu của mình (bao gồm cả nhà ở xã hội) thì khoảng cách ngắn nhất từ nơi có nhà ở đến nơi làm việc phải từ 30km trở lên – như vậy mới bảo đảm chính sách đồng bộ, công bằng và thực chất.