Căn bệnh khiến trung bình 7 phụ nữ Việt Nam tử vong mỗi ngày
Trung bình mỗi ngày, Việt Nam có khoảng 14 phụ nữ mắc bệnh và 7 phụ nữ tử vong do ung thư cổ tử cung. Nếu không có giải pháp hiệu quả, ước tính vào năm 2025, số phụ nữ tử vong hàng năm do ung thư cổ tử cung lên đến hơn 4.000 trường hợp.
Hơn 4.000 ca mắc mới, gần 3.000 ca tử vong vì ung thư cổ tử cung mỗi năm
Theo Tổ chức Y tế thế giới, ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư phổ biến thứ 4 ở phụ nữ trên toàn cầu. Tại Việt Nam, theo ghi nhận năm 2020, chúng ta có hơn 4.000 ca mắc mới và có gần 3.000 ca tử vong vì căn bệnh này.
Thông tin trên được PGS.TS Dương Thị Hồng, Phó Viện trưởng - Phụ trách quản lý, điều hành Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương chia sẻ tại Hội thảo công bố Kết quả nghiên cứu về hiệu quả đầu tư nhân rộng toàn quốc tiêm chủng HPV, sàng lọc và điều trị ung thư cổ tử cung, tổ chức ngày 10.5 tại Hà Nội.

PGS Hồng thông tin, bệnh ung thư cổ tử cung chiếm khoảng 12% trong tất cả các ung thư ở nữ giới và là nguyên nhân gây tử vong thứ hai sau ung thư vú ở phụ nữ Việt Nam. Trung bình mỗi ngày, Việt Nam có khoảng 14 phụ nữ mắc bệnh và 7 phụ nữ tử vong do ung thư cổ tử cung.
Nếu không có giải pháp hiệu quả (sự can thiệp kịp thời về tiêm chủng cũng như các giải pháp sàng lọc, điều trị), ước tính vào năm 2025, số phụ nữ tử vong hàng năm do ung thư cổ tử cung tại Việt Nam sẽ tăng lên hơn 4.000 trường hợp.
Theo PGS Hồng, nhiễm vi rút gây u nhú ở người (HPV) là nguyên nhân chính gây ra bệnh ung thư cổ tử cung và một số bệnh khác như ung thư hậu môn, bộ phận sinh dục và ung thư hầu miệng. Hiện nay, chưa có thuốc điều trị nhiễm HPV đặc hiệu, dẫn đến nhiễm HPV dai dẳng hoặc tái diễn, nguy cơ tiến triển thành ung thư cổ tử cung. Trong khi đó, chi phí điều trị ung thư cổ tử cung rất tốn kém.
“Dự phòng nhiễm HPV cũng chính là dự phòng ung thư cổ tử cung và các bệnh do HPV gây ra. Biện pháp hiệu quả nhất là tiêm vắc xin HPV. Ung thư cổ tử cung là một trong rất ít bệnh ung thư mà hiện nay đã có vắc xin dự phòng”, PGS Hồng khẳng định.
Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương cho biết, ngày 15.08.2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 104/NQ-CP về lộ trình tăng số lượng vắc xin trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng giai đoạn 2021 - 2030.
Theo đó, đưa vắc xin phòng bệnh ung thư cổ tử cung vào Chương trình Tiêm chủng mở rộng từ năm 2026; đồng thời cho phép các địa phương nếu bố trí được kinh phí thì có thể triển khai sớm hơn cho người dân.
Đây là tiền đề, cơ sở rất quan trọng để các địa phương chủ động bố trí kinh phí triển khai tiêm vắc xin HPV cho người dân.
Bà Hồng nhấn mạnh, hiện nay, vắc xin HPV chưa được đưa vào trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng, người dân phải trả tiền với chi phí cao hàng triệu đồng/mũi tiêm tại các cơ sở tiêm chủng dịch vụ.
Tuy nhiên tới đây, với sự hỗ trợ của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc), Liên minh toàn cầu về vắc xin về tiêm chủng (GAVI), chúng ta sẽ cố gắng tiếp cận việc cung ứng vắc xin HPV trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng với giá thành khoảng 6,5 USD (khoảng 152.000 đồng)/liều vắc xin.
“Chúng tôi đã cập nhật những thông tin nghiên cứu khoa học, cũng như kết quả triển khai của nhiều quốc gia cho thấy, với việc triển khai tiêm vắc xin HPV cao qua nhiều năm kết hợp cùng công tác khám sàng lọc, chẩn đoán và điều trị sớm, kịp thời thì trên thế giới, nhiều quốc gia đã giảm rõ rệt gánh nặng bệnh tật ung thư cổ tử cung.
Một trong những quốc gia chúng tôi rất ấn tượng là Úc. Họ gần như đã loại trừ được ung thư cổ tử cung bằng những giải pháp can thiệp nêu trên”, PGS Hồng cho hay.
Việt Nam hoàn toàn có thể "thanh toán" ung thư cổ tử cung trong 30 năm tới
Phát biểu tại Hội thảo, bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam chia sẻ, ung thư cổ tử cung hoàn toàn có thể ngăn ngừa.
“Chiến lược toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhằm thanh toán ung thư cổ tử cung vào năm 2030 kêu gọi tất cả các quốc gia trên thế giới thực hiện tiêm vắc xin ngừa HPV cho 90% trẻ em gái trước 15 tuổi.
Chúng ta cũng cần đảm bảo 70% phụ nữ được sàng lọc ung thư cổ tử cung. Và chúng ta cũng cần hướng đến mục tiêu đảm bảo 90% phụ nữ được phát hiện tiền ung thư hoặc ung thư có thể tiếp cận các phương pháp điều trị”, bà Naomi Kitahara nhấn mạnh.
Theo Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam, đáng tiếc là ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ tiêm chủng HPV và sàng lọc ung thư cổ tử cung còn thấp.
Điều tra các chỉ tiêu Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) về Phụ nữ và Trẻ em do Tổng cục Thống kê phối hợp thực hiện với UNFPA và UNICEF vào năm 2018 cho thấy, chỉ 12% phụ nữ và trẻ em gái trong độ tuổi 15 - 29 đã được tiêm chủng và chỉ 28% phụ nữ từ 30 - 49 tuổi đã được sàng lọc ung thư cổ tử cung.

Trong Hội thảo ngày 10.5, nghiên cứu về hiệu quả đầu tư tiêm chủng HPV tại Việt Nam do UNFPA phối hợp cùng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Đại học Victoria và Viện Daffodil (Úc) thực hiện đã được trình bày.
Nghiên cứu cho thấy, Việt Nam hoàn toàn có thể thanh toán ung thư cổ tử cung trong 30 năm tới nếu việc tiêm chủng HPV được triển khai cho 90% trẻ em gái vị thành niên; 70% phụ nữ được khám sàng lọc ung thư cổ tử cung và 90% phụ nữ bị tiền ung thư hoặc đang bị ung thư cổ tử cung được sự điều trị đầy đủ.
Nếu kết hợp tiêm chủng HPV với sàng lọc và điều trị, Việt Nam có thể thanh toán ung thư cổ tử cung chỉ trong vòng 29 năm, sớm hơn nếu chỉ thúc đẩy tiêm chủng HPV.
Nghiên cứu cũng ước tính rằng một USD đầu tư vào các chương trình ngăn ngừa ung thư cổ tử cung có thể mang lại lợi ích kinh tế tương đương từ 5 đến 11 USD và số tiền này tăng lên vào khoảng từ 8 đến 20 USD nếu kết hợp lợi ích kinh tế và xã hội.
Bà Naomi Kitahara nhấn mạnh, kết luận của nghiên cứu sẽ cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách cấp quốc gia và địa phương về việc triển khai hiệu quả tiêm chủng HPV cho trẻ em gái và sàng lọc ung thư cổ tử cung cho phụ nữ Việt Nam.