Cách ký Hiệp định Paris
Cách ký Hiệp định Paris là một vấn đề kỹ thuật nhưng thật ra lại là vấn đề chính trị mà cả bốn bên đều quan tâm. Nó cũng không chỉ có cách ký mà cả việc nêu tên các bên ký kết và chức vụ người ký kết.
![]() Cố vấn Lê Đức Thọ, Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh, Bộ trưởng Xuân Thủy và Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình trước khi ký Hiệp định Paris về Việt Nam, tháng 1.1973 |
Đây là Hội nghị gồm bốn bên thuộc hai phe, các bên khác phe không ai công nhận ai, riêng Mỹ không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về ngoại giao nhưng công nhận là một bên đàm phán có giá trị và đã nhận sẽ cùng ký. Và làm sao có thể khác được khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là địch thủ chính của Mỹ? Ý của Mỹ và Nguyễn Văn Thiệu là không công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẵn sàng ký với Chính phủ Việt Nam Cộng hòa nhưng kiên quyết không chấp nhận việc gạt bỏ tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong các văn kiện và cách nêu tên người ký kết. Như vậy không chỉ có vấn đề cách ký mà cả vấn đề nêu tên các bên ký kết và chức vụ người ký kết.
Trong đợt đàm phán lại tháng 12.1972, lúc đầu cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ Richard Nixon Henry Kissinger đề nghị: Mỹ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời (ba bên) ký chung một văn bản có lời mở đầu ghi đủ tên bốn chính phủ và Bộ trưởng Ngoại giao ký: Chính phủ Cộng hòa Việt Nam ký riêng một bản với Lời mở đầu “Việt Nam Cộng hòa hành động phối hợp với các bên tham gia Hội nghị Paris...”. Năm ngày sau, Kissinger lại đề nghị: Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký một văn bản với Lời mở đầu và điều 23 đầy đủ (điều 23 quy định Hiệp định do Bộ trưởng Ngoại giao ký); Chính phủ Cách mạng Lâm thời và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa mỗi bên ký dưới hình thức công hàm gia nhập (adherence).
![]() Các tầng lớp nhân dân mừng Hiệp định Paris được ký kết |
- Chỉ có hai bên Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký như đã thỏa thuận tháng 10.1972.
- Ký bốn bên nhưng không có tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời và Việt Nam Cộng hòa trong Lời mở đầu, không có chức vụ người ký.
- Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký một văn bản, Lời mở đầu và điều 23 đầy đủ; Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời ký hai văn bản riêng, nội dung Hiệp định đầy đủ nhưng Lời mở đầu không có tên bốn Chính phủ, ký tên nhưng không có chức vụ.
Ngày 9.1, Lê Đức Thọ đề nghị công thức mới: Mỹ - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ ký tắt, bốn bên ký chính thức với Lời mở đầu có tên bốn Chính phủ, người ký có nêu chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao. Phía Mỹ không chấp nhận. Sau khi văn bản Hiệp định hoàn thành, Lê Đức Thọ đưa một công thức mới, mềm dẻo hơn:
- Bốn bên ký với Lời mở đầu “Các bên tham gia Hội nghị Paris” (không nêu tên bốn Chính phủ), Hiệp định sẽ do bốn Ngoại trưởng ký đồng thời.
Về văn bản hai bên ký, Lê Đức Thọ đề nghị: Lời mở đầu ghi đủ tên bốn Chính phủ, điều 23 ghi: “Văn bản này do Bộ trưởãng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Hoa Kỳ ký, và văn bản Hiệp định cùng nội dung và lời văn do Bộ trưởng Ngoại giao (kể đủ bốn Chính phủ) ký cùng ngày hôm nay hợp thành một Hiệp định quốc tế lấy tên là Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Kissinger chỉ thêm bớt câu chữ và cuối cùng chấp nhận.
Kissinger đồng ý nhưng cho rằng trong văn bản, điều 23 không cần và không nên ghi Bộ trưởng Ngoại giao mà chỉ nên ghi: “Đại diện của các bên”. Tất nhiên ông Thọ không chịu. Cuối cùng, Kissinger cam kết rằng Mỹ, dù không ghi Bộ trưởng Ngoại giao, sẽ dùng ảnh hưởng của mình để Bộ trưởng Ngoại giao Sài Gòn ký và các bên ghi rõ chức vụ. Lê Đức Thọ chấp nhận ghi điều 23: “Hiệp định sẽ có hiệu lực khi đại diện toàn quyền của các bên tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam ký...”.
Hòa bình trở lại 19h ngày 13.1.1973, cuộc đàm phán kết thúc, trừ vài vấn đề sẽ giải quyết sau. Trưa hôm đó, trong một không khí cởi mở và niềm vui chung, hai đoàn ăn bữa cơm chung. Lê Đức Thọ nâng cốc nói với Kissinger: - Như vậy là hôm nay chúng ta kết thúc cuộc hội đàm. Tuy đây là kết quả bước đầu nhưng bước đầu rất quan trọng và cơ bản để lập lại hòa bình ở Việt Nam... Tôi đồng ý với ông là sẽ không thay đổi một tý gì trong văn bản và thời điểm. Chúng tôi sẽ làm đúng như thế. Đó là lời hứa của chúng tôi. Và chúng tôi tin là không mấy ngày nữa hòa bình sẽ được lập lại ở Việt Nam. - Tôi coi Hiệp định, các hiểu biết và Nghị định thư đã hoàn thành - Kissinger đáp - Tôi cam kết là phía chúng tôi sẽ không có gì thay đổi... và tôi chắc rằng đến lúc này thì hòa bình sẽ trở lại Đông Dương, sẽ trở lại với hai dân tộc chúng ta vào ngày 27.1 - ngày ký Hiệp định, chúng tôi sẽ tôn trọng Hiệp định ấy. Hiệp định này phải là một Hiệp định đánh dấu sự bắt đầu của một nền hòa bình thật sự. Cái bảo đảm tốt nhất cho nền hòa bình thật sự này là cải thiện quan hệ giữa nhân dân hai nước chúng ta. Chúng ta đã qua nhiều năm đau khổ, tôi muốn nói với ông là chúng tôi quyết tâm hết sức mình để cải thiện quan hệ giữa hai nước. - Chúng ta sẽ không quên ngày hôm nay.- Cả hai chúng ta đều không ai quên được. |