Các nguyên tắc bầu cử : Bầu cử phổ thông
Các nguyên tắc bầu cử có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật và chính trị của mỗi quốc gia. Các nguyên tắc này là cơ sở pháp lý cơ bản hình thành nên chế độ bầu cử.

Bầu cử Nghị viện của các nước trên thế giới hầu hết đều dựa trên các nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, tự do (hoặc bắt buộc), trực tiếp (hoặc gián tiếp), và bỏ phiếu kín. Năm nguyên tắc nói trên là một chỉnh thể, thiếu sót ở nguyên tắc nào cũng ảnh hưởng đến nguyên tắc khác. Để buộc các chủ thể phải tuân thủ các nguyên tắc nói trên, nhà nước pháp luật hóa các nột dung của chúng thành các quy phạm pháp luật. Có nguyên tắc được quy định rõ trong một quy định, có nguyên tắc được thể hiện bằng nhiều quy phạm pháp luật khác nhau. Theo chiều hướng của sự phát triển xã hội ngày càng mở rộng dân chủ thì các hình thức biểu hiện của các nguyên tắc càng đa dạng, càng phong phú, càng góp phần đảm bảo tính chất dân chủ của các cuộc bầu cử.
Nguyên tắc phổ thông là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử, được Hiến pháp của hầu hết các nước quy định. Phổ thông đầu phiếu được coi là một trong những quyền cơ bản nhất của công dân. Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của mình.
Thoạt đầu, nguyên tắc này xuất phát từ những phong trào ở châu Âu vào đầu thế kỷ XIX đòi quyền bầu cử đối với tất cả đàn ông không phân biệt giàu nghèo. Sang đầu thế kỷ XX, bắt đầu phong trào đòi quyền bầu cử của phụ nữ. Ngày nay, nguyên tắc này có nghĩa là, mọi công dân (cả nam giới và phụ nữ) đến tuổi trưởng thành đều được tham gia bầu cử, trừ những người mất trí hay những người bị tước quyền bầu cử do vi phạm pháp luật hình sự.

Nguyên tắc phổ thông được thể hiện ở tính toàn dân và toàn diện của bầu cử. Mặt khác, nguyên tắc bầu cử phổ thông đòi hỏi cử tri phải thỏa mãn hai yêu cầu cơ bản về độ tuổi và quốc tịch, đồng thời phải đáp ứng các điều kiện cư trú, điều kiện đạo đức, văn hóa và vật chất. Thông thường, Hiến pháp và pháp luật bầu cử của các nước quy định, mọi công dân từ độ tuổi nhất định, ví dụ từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, không phân biệt dân tộc, nòi giống, giới tính, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, tín ngưỡng, trình độ giáo dục, tài sản hoặc là thời gian cư trú. Chẳng hạn, Hiến pháp Nhật Bản quy định, quyền phổ thông đầu phiếu được bảo đảm cho công dân đến tuổi trưởng thành, không phân biệt giới tính, tài sản, hoặc số thuế phải nộp.
Tuy nhiên, trên thực tế pháp luật của từng nước vẫn có những hạn chế nhất định, gạt ra khỏi đời sống chính trị một số lượng lớn người dân. Trước đây, pháp luật nhiều nước còn có hạn chế về giới tính, chỉ cho phép nam giới có quyền bầu cử. Từ 2005, ở Kuwait không còn quy định này, nhưng nam giới và phụ nữ bỏ phiếu riêng. Ở một số nước, nguyên tắc bầu cử phổ thông còn có các hạn chế về tôn giáo, chẳng hạn các nhà tu hành Thái Lan và công dân theo đạo Hồi ở Iran không có quyền bầu cử.
Ngoài ra, nguyên tắc phổ thông bầu cử bị hạn chế ở một số quốc gia vì lý do khác. Pháp luật bầu cử của nhiều nước nghiêm cấm các quân nhân tại ngũ tham gia bầu cử, vì cho rằng quân đội không tham gia chính trị. Ví dụ, binh lính trong lực lượng vũ trang Brazil không có quyền bầu cử.