Bông cỏ giêng (Phần một)
Tôi mê bông cỏ giêng kì lạ thật, giống như mỗi con người sinh ra đã có duyên kiếp gì đó với một loài hoa, chỉ người đó mới nghe loài hoa kia ca hát, trò chuyện, chia sẻ buồn vui, chỉ có người đó mới ngất ngây hoặc điếng dại khi đứng trước nó.
Năm Cỏ Giêng là tên tôi từ tuổi thiếu niên, ai đó đã gọi một lần như thế, sau thì chết tên, vì cả làng cho tôi là thằng quái gở khi tết đến người ta đua nhau mang về nhà các bình mai vàng sáng rực, tôi lại chỉ trưng độc trong nhà loại bông sắc tím, thứ sắc mà ai cũng kị, cũng sợ, con gái lặm vào thì chỉ có chờ chờ đợi đợi vô vọng không hoá đá cũng lỡ thì, con trai dính tới thì lụy tình lụy đời đến danh vọng tiêu tan, đến thân tàn ma dại. Tôi mê bông cỏ giêng kì lạ thật, giống như mỗi con người sinh ra đã có duyên kiếp gì đó với một loài hoa, chỉ người đó mới nghe loài hoa kia ca hát, trò chuyện, chia sẻ buồn vui, chỉ có người đó mới ngất ngây hoặc điếng dại khi đứng trước nó. Bông của loài cỏ dại này nở rộ trong dịp Tết mà lại có khuôn mặt mang mang, nhè nhẹ, đài hoa như chiếc áo ngoài rách tươm, cũ rích mà cánh hoa, lưỡi hoa như một kiệt tác vô tình mà hoàn mỹ của tạo hoá: đây là bản pha các tông của màu tím phong phú nhất mà tôi biết được: từ sắc tim tím nhàn nhạt tưởng như nõn trắng, chút mơ hồ ấu thơ của thanh thiên bạch nhật, đến phớt tím mơ mơ cuối chiều lay động hồn người xế tuổi, đến tím hoa cà trong câu hát huê tình đau nhói tim can trần tục... và cuối cùng là tím than huyền bí, thẳm sâu, màu của phương Đông, màu của những quyển sách triết lí cuộc đời vốn bị đánh mất trang đầu, trang cuối. Sự hợp nhãn ấy, cái giao tình ấy như là tín hiệu báo trước một đời tu của tôi. Thích Giác Giêng cũng là cách gọi theo pháp danh, chữ “Giác” trong thứ bậc một dòng kệ ở đất Nam Trung bộ này, chữ “Giêng” là do lúc lên núi quy y, thầy tôi vừa cười vừa hỏi: Con thích tên gì? Tôi nói ngay: - Thưa, Giêng! Nếu không có tính thì chẳng bao giờ tới mệnh, con người vốn như thế mà! Thầy tôi bảo đó là tính! Sau này, khi qua thời Sa di, rồi thọ Cụ Túc Giới, tôi cũng chẳng nghĩ gì đến tên mình, nhưng quả thật loài bông dại ấy có gắn với đời tôi một câu chuyện, tất nhiên theo cách nghĩ của tôi là chẳng buồn, chẳng vui. Do Tết năm nay gặp lại người ở quê, lời vô tình mà động đến tim can nên tôi chợt nhớ lại.
Khi đã trở thành đại đức trụ trì một ngôi chùa nhỏ dưới chân núi, tôi có người bạn trẻ hay ghé thăm chơi, anh ta là nhà thơ quanh năm suốt tháng đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi bán thơ mình rồi tá túc khắp các chùa trong nước. Có lần thấy trên sườn xe đạp của anh ta có giắt cục đá, biết là để đập vào líp mỗi khi xe trật cóc, tôi nói với anh ta: - Mình còn bị trói sao mơ đi mở trói cho người khác? Anh ta đảnh lễ rồi nhỏ nhẹ, trịnh trọng: - Bạch thầy Năm Cỏ Giêng! Thơ con chỉ mong dìu ba đào về chân trời khác chứ không có ý đó. Tôi bỗng xao động trong lòng không chỉ vì lời đối đáp rất sáng của con người hoà nhan ái ngữ này(các nhà thơ khi đã trở nên “tận kỳ tính” thì đáng yêu biết bao) mà còn vì người trai này, nhà thơ lang thang này gọi đúng tên tôi hồi còn ở làng quê, hồi mẹ con tôi rau cháo trong mái tranh sập sệ ở dốc Cây Cầy, hồi mà Tết của tôi mênh mông một màu tím ngắt, tím đến héo hắt lòng người, chỉ có người đồng hương với tôi mới biết. Một ngọn gió từ trong sâu thẳm con người tôi, mịn màng như mây lụa trên cao, không xuân hạ nóng bỏng, không thu đông lạnh lẽo nhẹ nhàng thoát ra. Lần đầu tiên tôi thấu cảm: Ngoài tâm người không có hiện thực nào khác. Anh chàng đi bán thơ chợt nói tiếp: - Bạch thầy! Con như giếng khô trên gò cao, giờ chỉ biết ứa ra nhưng giọt mồ hôi, như cách làm của cát, của cuội, gọi là đổi bát cơm cũng được, gọi là gội rửa mình cũng xong, làm gì dám mong đi cởi trói cho tha nhân. Tôi nghĩ anh ta cũng còn chỗ lém mồm, đa ngôn nên tủm tỉm cười vặn lại lần nữa: - Sao lại lấy thơ làm kế sinh nhai, đem cái tính của biển cả chứa trong lỗ chân trâu sao đặng? - Bạch thầy! Chán con lắm! Con cũng thật hết cách, nhưng mà lỗ chân trâu có gì hay không còn tùy người, tùy cảnh, ngay trong giới được mọi người kính trọng, bất khả tư nghị như giới tu hành thiếu gì kẻ sống bằng nghề tu, chắc là đau đớn cũng như con.
Thoạt đầu, tôi nghĩ anh chàng này cà khịa, mượn hơi hướng câu nói của tôi đem cho cái mà tôi không nhận, vì tôi không thể có nó, nhưng định tâm tôi thấy đúng một phần. Không trụ ở đó, tôi còn liên tưởng ngay đến thầy tôi, người tôi chịu ơn quy y rồi cả thọ Cụ Túc Giới… Người ấy có một thời mông muội phạm giới, một ni sư mà đem lòng yêu thương một vị đại đức ở chùa khác, yêu đến độ nửa khuya xuống núi, vượt mưa gió, gánh hơn ba chục quyển Đại Tạng kinh quý giá của thầy mình đem tặng người tình. Hứng trọn cơn mưa đêm như trút nước, vừa run lạnh, vừa đi trong trạng thái như mộng du nên bị một chiếc xe khách từ Hàm Tân ngược chiều tung phải, thể xác không trọng thương, chỉ trầy xước sơ sơ nhưng Sư đau xót nhìn những quyển kinh trộm vụng tung bay tứ tán trong buổi mai vừa hé rạng. Sư cô mất ăn mất ngủ gần nửa năm trời, vết thương lòng chẳng biết bao giờ mới lành. Đức Bổn Sư ấy bây giờ lại xuống núi lấy tiền thập phương cúng dường mở trại trồng mười lăm ngàn trụ thanh long, mở trên chục đại lý mua bán thanh long lớn nhỏ, mở trại nuôi heo, nuôi bò, dụng cả chục tăng trẻ như một đội quân của dịch vụ tụng cúng phục vụ lễ lạt... rồi cười gọi là làm kinh tế chùa, tu theo lối trưởng giả Duy Ma Cật. Nhưng hãy khoan, gì thì gì chứ anh chàng đi bán dạo thơ vẫn đang trước mặt tôi, hãy lắng nghe câu chuyện riêng tư này chút đã!
“Bạch thầy! Chán con lắm! Trước đây con chưa bao giờ dừng lại nhìn một khung trời sắp tắt nắng, một nấm mồ bên đường nói chi đến một bông hoa xem có lung linh hay sắp rữa nát. Chưa bao giờ! Con luôn bị quỹ đạo công việc cuốn đi, cuốn đi như chiếc lá nhỏ trong dòng bão lớn. Chưa biết ngày sau thân này ra sao đây? Con luôn lẩm bẩm như vậy. Con quần quật với công việc, tối mặt tối mũi với công việc. Chẳng ai khiến nổi con, chỉ có sự lo lắng thái quá hành hạ con, thật sự lúc ấy con chưa phân biệt các cung bậc của sự lo lắng. Sự lo lắng không đâu hành hạ con người đến mê, đến muội mà không biết. Lúc ấy, con muốn bứt phá, muốn vượt lên thân phận của một dòng họ trồng lúa, nghèo kiết xác quá ba đời. Chẳng ai khó ba đời, vậy mà bốn đời nhà con đều rách nát, đều nhục nhã, đều hèn hạ. Trong phả hệ nhà con, đàn bà thì bán lưng cho trời, bán mặt cho đất như thân cò từ sáng đến tối vục mỏ vào vũng bùn khổ ải. Đàn ông cả đời như con cút de thụt thụt thò thò vón đất cho khô đến chai vàng cả tay, chai trắng cả hồn.
“Đến ngày kia, sau một ngày mồ hôi đẫm áo, con ngã lưng trên bãi cỏ ngủ ngon lành. Giật mình dậy thấy bông cỏ giêng nở tím cả khu đồi. Ngày cùng tháng tận rồi đây! Thoạt đầu con chỉ nghĩ thế. Con ngồi dậy sau cái duỗi mình, chợt bàng hoàng thấy bao nhiêu là bông cỏ giêng dưới lưng con cũng đang duỗi mình, ngửa mặt bùng nở. Lần đầu tiên con phát hiện đó cũng là những sinh linh sống động. Con hít một hơi thật sâu, một hơi thở đầy hương hoa đồng nội, trời đất chợt bao phủ một màu tím đến ngút ngát huyền niệm. Chính sự huyền niệm vừa nhận biết cho con thêm hiểu cái mênh mông, không cùng của con người. Chán con lắm! Con chợt đọc lên vài câu rời rạc và có duyên với thơ từ đó, người làng chưa hiểu cứ cho là con bị ám. Họ cũng kể về thầy như một trường hợp bị ám khác bởi bông của loài cỏ dại ấy.”
Truyện ngắn của Nguyễn Hiệp
(Xuất bản trên báo giấy số 263, ngày 20.9.2006)