Bơi lội giữa ngôn từ

Đỗ Ngọc Thống 28/09/2011 07:18

Có thể nói, đề tài tùy bút của Nguyễn Tham Thiện Kế không có gì mới. Cả tập sách viết về những món ăn và vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người. Thiện Kế đã đứng trước một Hoàng Hạc lâu mà ngước lên đâu chỉ có mình thơ Thôi Hiệu. Đó là một thử thách lớn lao và nghiệt ngã…

1

Tôi đã bắt đầu đọc tập sách của Thiện Kế trong nỗi niềm lo âu cho người viết như thế. Rồi cứ qua mỗi bài, cái phấp phỏng lo âu ấy vơi dần, cho đến cuối cùng chỉ còn lại một nỗi niềm bâng khuâng khó tả; một sự biết ơn người đã viết ra Dặm ngàn hương cốm mẹ.

Thực ra, Thiện Kế đã ý thức được rất rõ những khó khăn, thử thách mà mình phải vượt. Với bún chả chẳng hạn, anh viết: “Tôi ngờ không thể thêm nữa về bún chả Hà Nội, một khi những văn nhân tuyệt tài như Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân trong đời sống đã từng xoa xuýt trầm trồ cách này hay cách khác đưa bún chả thành giai phẩm”. Thế rồi anh vẫn viết, vẫn tìm một cách tiếp cận khác để làm mới một đối tượng đã cũ. Tôi lần giở lại Thạch Lam, đúng là ông viết về bún chả hóm hỉnh và hấp dẫn thật: “Khi ngồi cuối chiều gió, đói bụng mà đón lấy cái khói chả thơm, thì ngài dễ thành thi sĩ lắm. Khói lam cuộn như sương mờ ở sườn núi, giọt mỡ chả xèo trên than hồng như một tiếng thở dài”. Thạch Lam chỉ tả qua và gợi thế thôi, còn Thiện Kế thì khác, anh ngụp lặn rất sâu vào cách tạo tác bún chả, từ cách chọn thịt ba chỉ, đến việc thái thịt, than nướng, cách nướng. Cách chọn rau thơm, cách pha nước chấm đã đành là quan trọng, nhưng đọc Thiện Kế mới thấy ngay cả vỉ nướng chả cũng không đơn giản chút nào.

Tôi cũng đã từng phục lăn khi đọc những trang Nguyễn Tuân miêu tả cách chọn nước pha trà của cụ Âm trong Chén trà trong sương sớm... Nhưng rồi xem cách uống trà Ốc của sư Trụ Trì chùa Cao mà Thiện Kế giới thiệu thì tôi thật ngỡ ngàng, không biết Trà đạo Nhật Bản hay Trung Hoa, Cao Ly… có cách pha, cách uống nào khác công phu, diệu nghệ, cao sang và thanh tao đến thế không?

Cũng như thú ẩm thực, viết về cảnh sắc của Hà Nội ngàn năm văn vật, xưa nay đã có quá nhiều tên tuổi với những dấu ấn khó mờ phai. Thiện Kế cũng viết về Hà Nội và đã cố gắng để lại dấu vết của riêng mình. Không phải chỉ bằng tài hoa, dụng chữ, đặt câu… mà trước hết bằng tất cả tấm lòng thương thảo, mến yêu, trân trọng và đặc biệt là nỗi đau nhói khi Hà Nội đang xuống cấp, đang mất dần đi vẻ thanh lịch ngàn năm.

Viết về Hà Nội, anh cất Lời nguyện cầu cho Hồ Tây sương khói; da diết nhớ mùa hoa loa kèn trong Khúc ứng tấu tháng tư; âm thầm sầu não Trong bóng những ngôi nhà cổ đã mất; đau đáu Với hoa đào năm cũ và háo hức đi trong Những ngõ phố của tình yêu… Cũng như cả tập sách, âm hưởng chủ đạo trong các bài về Hà Nội là giọng trầm buồn, thương nhớ. Nhớ thương một thời và buồn bã cho những gì đang đổi thay, mai một, tàn phai. Vũ Bằng ngày ấy xa dạt, sống trong nắng gió lồng lộng ngút ngàn phương Nam, bỗng da diết, bồn chồn Thương nhớ mười hai. Nhớ cánh hoa đào Hà Nội, nhớ cái rét Nàng Bân, nhớ cả tiết mưa phùn xứ Bắc… Nguyễn Tuân ngồi ở thủ đô Henxanhky lạnh buốt của Phần Lan mà nhớ về bát Phở bốc khói nghi ngút chốn Hà Thành. “Tha hương - nhớ quê” là lẽ phải, thường tình. Với Thiện Kế thì khác, anh nhớ thương quê ngay tại quê hương “Tôi đang đứng ở bên hồ mà vẫn thương nhớ Hồ Tây” (Lời nguyện cầu cho Hồ Tây).

Cùng nâng niu, trân trọng những di sản văn hóa vật chất và tinh thần của cha ông, cùng thể hiện lòng yêu quê hương đất nước, Thạch Lam mải miết đi tìm cái đẹp đã mất; Nguyễn Tuân nhớ, tôn thờ và biểu dương cái tài, cái đẹp “Vang bóng một thời”, cũng là những cái đã phôi phai, đã lụi tàn, đã mất… Với Dặm ngàn hương cốm mẹ, Thiện Kế khóc cho những gì đang mất, đang lụi tàn. Còn đó tất cả đấy thôi mà sao vẫn thấy trống vắng, nhạt nhòa. Chiếc bánh khúc còn đó mà hồn khúc ở đâu?

Viết về những cảnh sắc và hương vị quê hương nhưng tập sách không chỉ thuần túy là một bảo tàng thiên nhiên - ẩm thực. Suốt Dặm ngàn hương cốm mẹ, không có cảnh sắc, hương vị nào lại không gắn với số kiếp và thân phận con người. Mà nổi bật hơn hết là người Mẹ âm thầm một nắng hai sương; người Dì, người Cô khéo tay hay lam hay làm, người Bà tần tảo hay lo hay nghĩ, người U già luôn quên đi bản thân mình và người Chị thảo thơm trắng trong mà đoản phận. Và cả Ni cô nữa, người con gái luôn âm thầm lẳng lặng... Tất cả những người phụ nữ trong tập sách này đều là những biểu tượng cao đẹp, đặc biệt là lòng vị tha và đức hy sinh.

Thân phận và số kiếp con người trong tập sách gắn chặt với những bước thăng trầm dâu bể của mỗi cảnh sắc, mỗi món ăn thức uống của quê hương. Họ đều là những chứng nhân của một thời chuyển dịch: từ vẻ đẹp ngất ngây đến xuống cấp, tàn phai; từ thanh tao, nền nã đến thô thiển, xô bồ; từ mộng mơ, lãng mạn đến chua chát, u buồn… Có lẽ vì thế hầu như tất cả bài viết đều kết thúc bằng một nốt nhạc u trầm, vang vọng ca từ như khao khát nguyện cầu cho cái đẹp; dội vào lòng người đọc những bâng khuâng, nuối tiếc, ngẩn ngơ…

Gấp sách lại tôi vẫn thấy hiển hiện những thân phận con người, sống đẹp thế, hiền hòa là thế mà sao vất vả thăng trầm đến thế. Phải chăng cũng đành bằng lòng với những lý giải đớn đau mà cũng thật vị tha này: “Có những con người tốt đẹp, sống ở miền quê tốt đẹp với bao phong vị tốt đẹp vậy mà không thể sống cùng nhau chung mái nhà... bởi vì họ quá thiên lương... bởi làng quê quá hiền hòa... bởi rằng đã là như thế” (Ngàn dâu chẳng vị một cây).

2

Mặc dù suốt từ đầu chỉ một mực ngợi ca Dặm ngàn hương cốm mẹ, nhưng cũng ngay từ đầu tôi đã nghĩ, văn Thiện Kế chắc chắn không phải ai cũng thích. Trong bộn bề của cuộc sống mưu sinh, chắc nhiều người đọc văn anh sẽ nhăn trán, cau mặt mà rằng: ăn uống gì mà kiểu cách cầu kỳ, phức tạp; viết lách gì mà loằng ngoằng và chằng chịt như mê cung như thế! Lại thêm hàng loạt những từ ngữ ít nghe, nhiều cách nói khác lạ, rồi đảo ngữ, bớt từ, chấm câu… dường như bất chấp cú pháp Việt v.v…

Kể cũng khó chiều được hết cả thế gian. Người xưa cũng đã rằng “văn chương thiên cổ sự”, khen chê là chuyện bình thường. Với tôi, Thiện Kế qua Dặm ngàn hương cốm mẹ thực sự là một nghệ sĩ ngôn từ. Viết về toàn những đặc sản “có một không hai”, không lẫn, không lộn với bất cứ một thứ gì khác; để miêu tả, giới thiệu, làm sống dậy hết sắc màu, âm thanh, hình hài và đặc biệt chấm phá, lột tả được linh hồn tạo vật trước hết nghệ sĩ phải rất giàu chữ nghĩa, ngôn từ. Ngôn ngữ đối với nhà văn như nước với cá. Cá chỉ có thể vùng vẫy thoải mái giữa hồ sâu, nước cả. Đọc Thiện Kế, tôi có cảm giác anh bơi lội khá thoải mái giữa sóng nước ngôn từ. Thử đọc một đoạn anh viết về cây xoan: “Mỗi tuổi thơ gắn với một bóng cây. Ký ức Tôi có miền bán sơn địa nơi thày mẹ đến khẩn hoang bộn bề xanh. Lắng đắng mùa qua cây ngọt chẳng nhớ, những chỉ thương đắng đót cây xoan... Giường cưới gỗ xoan trải chiếu cạp điều, vợ chồng trẻ đan thân tỉnh giấc đêm mùa Xuân nghe mưa đẫm mầm xoan. Tiếng trống chèo bung bung, bì bõm ao đình sóng sóng hoa xoan rối múa. Ngân nga đào lệch đưa tình choáng váng trai làng tan nát tình xoan”. Chỉ một đoạn ngắn thế thôi đã thấy rất nhiều từ dùng khác lạ: “lắng đắng”,“khẩn hoang”,“rối múa”,“đan thân”,“đắng đót”; đan xen với hàng loạt từ láy “sóng sóng”,“ngân nga”,“choáng váng”,“bung bung”,“bì bõm”,“bộn bề”, đọc lên nghe cứ bâng khuâng da diết; rộn rã âm thanh và náo nức một vùng quê.

Không chỉ dụng công từ ngữ, tác giả Dặm ngàn hương cốm mẹ còn luôn có ý thức làm mới cách diễn đạt. Nói về sự ra đi, mất mát, về cái chết chẳng hạn. Khi thì anh viết thật giản dị: “Rồi Ngoại mất vào đêm trăng suông miên man mưa”; khi thì nói bóng, nói giảm cho đỡ phần đau xót “Chị Cả... cũng nương theo Ngoại”, hoặc “Chúa đã mang đi”, “Chị - Tôi hóa mây trắng ngang Trời”. Ông bà nội thì dùng “yên giấc ngoài vườn Thánh” nhưng với Sư Trụ Trì chùa Cao phải “để xá lỵ mười tầng tháp”, còn Cha Xứ được “nghiêm giữa cẩm thạch bên hang đá giả vọng Bellem”... Cách phô diễn sự vật của Thiện Kế còn thể hiện việc chấm câu, ngắt nhịp. Có những câu dài lê thê, chẳng hạn khi anh tả về đĩa rau sắn, chỉ là rau sắn thôi mà nghe sao “huyền hoặc”, vời vợi hơn cả “cao lương mỹ vị: “Sợi thịt gà trắng ngẩn tinh khiết như là không có thật, những phiến da gà vàng ươm, màu thị chín thanh tao, ớt thái chỉ điểm xuyết giăng mắc dọc ngang sợi đỏ, lạc rang chín tới, ngân ngẩn tựa vụn ngọc trai, giá đỗ tươi như râu mực thập thò trong hỗn độn mùi hạt tiêu trắng cay tê lẫn nhưng nhức rau răm ứa nước miếng… (Phận sắn). Nhưng khi cần tái hiện cái không khí nhộn nhịp, náo nức của Tết sắp về, thì lại bằng những câu văn thật ngắn gọn, tả chân: “Đường làng rậm rịch. Cát vương. Lá khô. Đống rấm khói cay. Gà lẻ gáy. Lợn ỉ nằm ườn”. (Nhớ dưới mưa xuân).

Đọc Dặm ngàn hương cốm mẹ, thấy Thiện Kế yêu tiếng Việt biết nhường nào. Tôi nghĩ, vào thời buổi này những người lao động nghiêm túc vì tiếng Việt nghệ thuật như anh không nhiều. Và vì thế càng thấy trân trọng hơn những đóng góp của tập tùy bút, cho dù nó vẫn còn những tỳ vết, những khiếm khuyết thường tình.

____________________________________

Dặm ngàn hương cốm mẹ, tập tùy bút của Nguyễn Tham Thiện Kế, NXB Phụ Nữ 2011.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Bơi lội giữa ngôn từ
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO