Trường hợp bệnh nhân P.T.N (46 tuổi, Hà Nội) làm văn phòng, do công việc nhiều và ăn uống thất thường hay thức đêm. Một tuần nay, chị N đau đầu liên miên, đi lại đau, nhức 2 mắt, sợ gió lạnh, đau cả khi có tiếng động mạnh, cơ thể mệt mỏi kèm theo mất ngủ.
Mặc dù, người bệnh đã đi khám và chiếu chụp sọ não, tuy nhiên không phát hiện bệnh gì. Bác sĩ có kê đơn thuốc uống giảm đau an thần, bổ não… nhưng chị N. vẫn không đỡ đau và không ngủ được.
Sau đó, chị N. thực hiện trị liệu tại chỗ bằng phương pháp châm và cứu, xoa bóp bấm huyệt toàn vùng đầu cổ vai gáy. Sau 60 phút trị liệu, bệnh nhân thấy rất rõ tình trạng cơn đau đầu đã ổn định được 70-80% . Sau 1 buổi trị liệu đầu tiên, bệnh nhân tiến triển tốt và ngủ được.
Những điều cần biết về bệnh đau đầu
Bác sĩ Chuyên khoa 1 Y học cổ truyền - phục hồi chắc năng Đinh Việt Hùng cho biết, đau đầu là triệu chứng của một bệnh nào đó có nguyên nhân thực thể hoặc chỉ là đơn chứng (Bệnh tâm căn suy nhược – Suy nhược thần kinh) đòi hỏi người thầy thuốc phải có một kiến thức sâu rộng để loại trừ các nguyên nhân nguy hiểm có tính chất sinh mạng (tuy ít gặp nhưng dễ mắc sai lầm).
Theo y học hiện đại các cơ chế đau đầu bao gồm: cơ chế viêm mạch máu (do co kéo, chèn ép, xê dịch và dãn mạch máu trong não); do viêm nhiễm các tổ chức xung quanh; do bản thân dây thần kinh dẫn truyền cảm giác bị tổn thương. Các cơ chế trên có thể tác động riêng rẽ hoặc phối hợp lẫn nhau.
Theo y học cổ truyền, chứng đau đầu gọi là đầu thống, 50% các đau đầu do bệnh tâm căn suy nhược – suy nhược thần kinh có thể điều trị bằng châm cứu rất hiệu quả.
Nguyên nhân gây nên bệnh đầu
- Đau đầu ngoại nhân: Do giữ gìn không cẩn thận, do điều kiện làm việc không tốt, ăn ở không vệ sinh gây nên như: Nằm trước gió – đau đầu do phong tà; nhiễm phải sương lạnh, sinh hoạt làm việc trong môi trường điều hòa lâu – đau đầu do hàn tà; làm việc dưới trời nắng – đau đầu do thử bệnh; ở nơi ẩm thấp, làm việc ngâm mình dưới nước lâu – đau đầu do thấp tà.
Ngoài ra, một số bệnh đau đầu do cảm phải một số khí lạ, truyền từ người này qua người khác, có tính chất truyền nhiễm tạo thành vùng dịch gọi là đau đầu do dịch lệ (bệnh dịch).
- Đau đầu do nội nhân: Do nguyên khí suy kém, huyết phận không đầy đủ, hoặc do đàm thấp ứ đọng, do thức ăn ứ trệ ở trung tiêu( Tỳ, Vị), hoặc do thất tình ( buồn, giận, lo , nghĩ, vui mừng, sợ hãi, uất quá…) Hỏa khí uất lại ( không lưu thông ) ở can – đờm gây ra đau đầu.
- Bất nội ngoại nhân: Do té ngã, chấn thương, hoặc khí trệ, huyết ứ, đàm ẩm…
Triệu chứng và cách điều trị bằng châm cứu
Đau đầu do ngoại cảm.
– Do phong tà: Đau đầu có tính chất cấp tính, đột ngột đau dữ dội, đau theo cơn có lúc dịu đi, kèm theo choáng váng, hoa mắt, có thể có sốt, sợ gió (ố phong).
Cách điều trị: Mạch phù huyền, hữu lực. Mạch Phù sác (Phong nhiệt); Phù khẩn (Phong hàn). Châm tả Bách hội, Thượng tinh, Thái dương, Phong trì, Phong phủ, Hợp cốc, Ngoại quan, Liệt khuyết.
– Do nhiệt tà (còn gọi là thử bệnh): Đau đầu đau dữ dội, liên tục. Mặt đỏ, mắt đỏ, rêu lưỡi vàng dầy, khô, hơi thở hôi. Cảm giác nóng bức, sốt ra nhiều mồ hôi, miệng khát, thích uống nước lạnh và chườm lạnh, tiểu tiện bí kết (nước tiểu ít, mầu đỏ), táo bón, mạch hồng sác.
Cách điều trị: Chích huyết ở Thái dương, Đầu duy, Ủy trung, Hợp cốc, sau châm tả Hành gian, Khúc trì.
– Do thấp tà: Đau nhức nặng, liên tục, trời ẩm thấp (nồm) đau tăng lên, toàn thân nặng nề, đầy bụng, ăn chậm tiêu, có thể có rối loạn tiêu hóa. Mạch phù hoạt hoặc hoãn tế.
Cách điều trị: Châm tả Bách hội, Thượng tinh, Thái dương, Khúc trì, kết hợp với bổ: Tỳ du, Trung quản, Nội đình, Túc tam lý, Phong long.
- Do hàn tà: đau đầu có tính chất cấp tính sau nhiễm lạnh, đau dữ dội, buốt như xuyên xuống răng, nhức buốt, chân tay lạnh, sợ lạnh, thích uống nước ấm, ủ ấm. Mới bị thì mạch phù, khẩn, lâu hơn thì mạch trầm trì.
Cách điều trị: Ôn châm hoặc cứu, Bách hội, Thượng tinh, Thái dương, Phong trì, Phong phủ, Hợp cốc, Ngoại quan. Nếu có các triệu chứng kèm theo khác như: Ngạt mũi, chảy nước mũi thì châm Quyền liêu, Nghinh hương. Ho thì châm Thiên đột, Khí xá, Phế du, Liệt khuyết. Đau bụng, sợ lạnh thì cứu Tỳ du ,Vị du, Quan nguyên, Khí hải…
Đau đầu do nội thương
– Do khí hư: Hơi thở ngắn, yếu, đau đầu nhiều về buổi sáng, về chiều nhẹ hơn, đau tăng khi phải tập trung suy nghĩ, khi lao động nặng, có lúc đầu như trống không, mệt mỏi, chân tay không buồn nhấc lên. Ăn uống kém, mạch phù đoản hoặc trầm nhược.
Cách điều trị: Ôn châm hoặc cứu Bách hội, Trung quản, Quan nguyên, Khí hải, Thái khê, Tam âm giao, Túc tam lý.
- Do huyết hư: Sắc mặt vàng nhợt, môi miệng xanh bạc. Đau đầu không dữ dội chỉ đau lâm râm cả ngày ở thái dương và đuôi lông mày, thỉnh thoảng đau chói như xuyên qua đầu, về trưa đau tăng lên. Tinh thần bị rối loạn, hay sợ sệt, cơ thể suy nhược ăn uống kém.
Cách điều trị: Do Huyết hư - Châm tả Bách hội, Đầu duy, Khúc trì, Hợp cốc, Can du. Đồng thời châm bổ - Huyết hải, Cách du, Thái xung, Tam âm giao, Túc tam lý.
– Do đàm thấp đình trệ ở trung tiêu: Gò má đỏ, ít nói, dáng chậm chạp, béo bệu( khí trệ). Đau đầu nhức nặng, choáng váng, mình mẩy nặng nề, nôn nao, buồn nôn, tức ngực, đầy bụng, ho khạc nhiều đờm.
Cách điều trị: Châm tả Bách hội, Toản trúc, Phong long, Liệt khuyết, hoặc Nội quan, Phong trì, Ngoại quan, Trung quản
- Do huyễn vựng: Bốc hỏa, mặt đỏ, đầu đau nhức nặng, choáng váng mắt tối sầm, khi bị kích thích (bị xúc phạm) thì phát cơn đau dữ dội đau tức lan sang hai mạn sườn. Kèm theo đau lưng, mỏi gối, có thể di mộng tinh (nam trẻ tuổi), khí hư bạch đới (nữ).
Cách điều trị: Cứu Bách hội, Túc tam lý, Thái dương và châm bổ - Thận du, Quan nguyên
Đau đầu do bệnh dịch
Y văn cổ có ghi chép về chứng đau đầu này. Triệu chứng ngoài đau đầu có thể kèm theo sốt, phát ban, đi ngoài... bệnh có tính chất lây truyền, dễ tạo thành dịch, thường gặp khi thời tiết giao mùa nên có y văn còn quy vào chứng ôn bệnh.