Bệnh nhi mắc suy thận mạn giai đoạn cuối
Trường hợp bệnh nhi A.N (9 tuổi) , nhưng chỉ nặng 22kg, cao 1m24, thấp bé hơn nhiều so với các bạn cùng trang lứa. Cách đây 1 năm, trẻ được chẩn đoán mắc bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối, kèm theo tăng huyết áp, suy tim, phải lọc máu chu kỳ 3 lần/tuần tại Khoa Thận và Lọc máu – Bệnh viện Nhi Trung ương.
Theo bác sĩ Bệnh viện Nhi Trung ương, việc chạy thận nhân tạo hay lọc màng bụng, lọc máu có thể giúp trẻ duy trì sự sống, nhưng chất lượng cuộc sống của trẻ rất thấp, kèm theo nhiều nguy cơ đe dọa tính mạng như tăng huyết áp, suy tim. Vì vậy, ghép thận được xem là phương pháp duy nhất để có thể giúp trẻ duy trì chất lượng cuộc sống và sự phát triển thể chất như trẻ bình thường.
Bác sĩ Trương Thùy Linh – Khoa Thận và Lọc máu, Bệnh viện Nhi Trung ương chia sẻ: “Bệnh nhi A.N phải mất gần 1 năm mới đủ điều kiện sức khỏe, các chỉ số ổn định, chức năng tim mạch, nội tiết trong giới hạn cho phép để có thể ghép thận.
Cách đây 3 tháng, bệnh nhi nhiễm sán. Do đó, Khoa đã phải phối hợp với các bác sĩ Trung tâm Bệnh nhiệt đới đưa ra phác đồ điều trị tốt nhất, nhằm đảm bảo an toàn cho trẻ sau khi ghép dùng thuốc ức chế miễn dịch”.
Đặc biệt, trước khi ghép, bệnh nhi được phân tích kết quả xét nghiệm gen kết hợp đối chiếu với kết quả lâm sàng, nhằm loại trừ các nguyên nhân suy thận do dột biến gen, giúp quyết định ghép thận của các bác sĩ được thực hiện chính xác hơn và có tiên lượng tốt hơn.
Bên cạnh đó, mọi yếu tố từ chiều cao, cân nặng, các chỉ số xét nghiệm máu, tiêm phòng ngừa bệnh truyền nhiễm, các xét nghiệm sàng lọc người cho thận, hồ sơ pháp lý,…cũng được chuẩn bị đầy đủ trước khi ghép.
5 giờ đồng hồ thực hiện ca phẫu thuật ghép thận
Ngày 27.2, bệnh nhi A.N được hội chẩn bệnh viện dưới sự chủ trì của TS.BS Cao Việt Tùng – Phó Giám đốc Bệnh viện cùng sự chỉ đạo sát sao của Ban Giám đốc để đảm bảo các quy trình trước, trong và sau ghép được kiểm soát chặt chẽ nhất.
TS.BS Nguyễn Thu Hương – Trưởng Khoa Thận và Lọc máu, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết: “Về mặt kỹ thuật, công tác ghép thận tại Bệnh viện Nhi Trung ương đã trở thành thường quy nhiều năm qua. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng để một ca ghép thận thành công là sự phối hợp nhịp nhàng của tất cả các chuyên khoa trong Bệnh viện như: Ngoại Tiết niệu, Tim mạch, Thận và Lọc máu, Gây mê hồi sức, Hồi sức ngoại, Nội tiết – Chuyển hóa – Di truyền, Chẩn đoán hình ảnh, Ngân hàng máu, Sinh hóa, Huyết học…”
Ngày 11.3, hai cuộc mổ lấy thận và ghép thận được tiến hành song song, đảm bảo thận lấy ra phải được ghép kịp thời. Trải qua 5 giờ thực hiện, với mọi quy trình tỉ mỉ và chính xác, ca phẫu thuật ghép thận đã thành công, thận phải ngay sau khi được ghép hồng hào, tưới máu tốt và bắt đầu có nước tiểu.
ThS.BS Lê Anh Dũng – Trưởng khoa Ngoại Tiết niệu, Bệnh viện Nhi Trung ương, người trực tiếp tham gia kíp ghép thận cho bệnh nhi cho biết: “Đây là ca ghép thận thứ 62 thành công của bệnh viện tính từ năm 2004. Kỹ thuật ghép thận đã được các y bác sĩ của bệnh viện hoàn toàn làm chủ. Tuy nhiên, mỗi ca bệnh sẽ có những đặc thù khác nhau.
Đối với bệnh nhi A.N lần này, khó khăn nhất khi ghép là tĩnh mạch của người cho chia sớm, nên khi nối tĩnh mạch thận của người cho vào người nhận sẽ bị quá dài. Vì vậy, chúng tôi phải cắt bớt và tạo hình lại 2 nhánh của tĩnh mạch thận trước khi nối lại và ghép cho trẻ”.
Sau khi ghép, trẻ được chuyển về Khoa Điều trị tích cực Ngoại khoa để tiếp tục hồi sức sau ghép. Giai đoạn ngay sau ghép thận, ngoài hỗ trợ các chức năng sống thường quy, kiểm soát và phòng chống nhiễm khuẩn, đảm bảo dinh dưỡng cho bệnh nhi.
Đồng thời, bác sĩ lưu ý đến duy trì huyết áp tốt, đảm bảo tưới máu thận tối ưu, bù lại thể tích tuần hoàn, cân bằng nước điện giải do có tình trạng đa niệu ở giai đoạn đầu sau ghép và duy trì các thuốc chống thải ghép.
Hiện tại, sau 7 ngày sau ghép thận, tình trạng bệnh nhi ổn định, tiểu tốt, các chỉ số sinh hóa về chức năng thận, nội tiết trở về giới hạn bình thường, huyết áp được kiểm soát, các vấn đề tim mạch cũng sẽ cải thiện dần khi sức khỏe của trẻ tiến triển và đã được xuất viện.