Thời sự Quốc hội

Bảo vệ quyền con người trong bối cảnh đặc biệt

Phi Long 23/06/2025 19:11

Thảo luận tại Tổ 1, các ĐBQH thành phố Hà Nội đánh giá Luật Tình trạng khẩn cấp là bước tiến lập pháp cần thiết nhằm ứng phó hiệu quả với các tình huống rủi ro lớn; đồng thời, giữ vững an ninh quốc gia và bảo vệ quyền con người trong bối cảnh đặc biệt.

Đề cao tính kịp thời và huy động toàn dân

Phát biểu thảo luận, ĐBQH Nguyễn Thị Lan đồng tình với sự cần thiết ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp vì đây là yêu cầu khách quan xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với Hiến pháp 2013. Theo phân tích của đại biểu, trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh, sự cố môi trường và những thách thức an ninh ngày càng phức tạp, hệ thống pháp luật hiện hành vẫn còn tản mạn và chủ yếu dựa trên Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp năm 2000 đã không còn phù hợp.

Việc ban hành luật sẽ giúp thiết lập khuôn khổ pháp lý thống nhất, minh bạch và hiệu quả, bảo đảm tính kịp thời và thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, nâng cao khả năng huy động nguồn lực và xử lý hậu quả, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. "Đây cũng là bước tiến quan trọng để hoàn thiện thể chế pháp luật của Nhà nước pháp quyền, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước trong giai đoạn mới", ĐBQH Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.

6a996fcfaae51dbb44f4.jpg
ĐBQH Nguyễn Thị Lan phát biểu tại thảo luận Tổ, chiều 23/6

Góp ý về phạm vi điều chỉnh và giải thích từ ngữ (Điều 1, 2) trong dự thảo luật, ĐBQH Nguyễn Thị Lan đề nghị bổ sung và làm rõ thêm các loại tình trạng khẩn cấp, không chỉ giới hạn trong phạm vi thiên tai, dịch bệnh, an ninh quốc gia mà cần bổ sung trường hợp "tình trạng khẩn cấp do sự cố công nghiệp nghiêm trọng, biến đổi khí hậu" để bảo đảm bao quát thực tế đa dạng. Đồng thời, nên cụ thể hóa thuật ngữ "phòng thủ dân sự cấp độ 3" tại Điều 2, vì đây là thuật ngữ kỹ thuật, cần tham chiếu cụ thể quy định của pháp luật liên quan.

Về nguyên tắc hoạt động trong tình trạng khẩn cấp, ĐBQH Nguyễn Thị Lan phân tích, dự thảo đã quy định rõ ràng các nguyên tắc cốt lõi, bám sát Hiến pháp 2013 và pháp luật quốc tế; nhấn mạnh trách nhiệm và vai trò lãnh đạo thống nhất của Đảng, Nhà nước, nhưng vẫn đề cao tính kịp thời và huy động toàn dân. Đồng thời, dự thảo luật đề ra nguyên tắc hạn chế quyền con người trong tình trạng khẩn cấp theo hướng cần thiết và không phân biệt đối xử cũng như quy định rõ rõ ràng việc miễn trừ trách nhiệm để khuyến khích quyết định kịp thời của người thực thi công vụ.

Tuy nhiên để hoàn thiện dự thảo luật, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét bổ sung và làm rõ thêm một số điểm. Thứ nhất, cần quy định rõ hơn về nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân không chỉ “thật sự cần thiết” mà còn phải “tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tình trạng khẩn cấp” để bảo đảm đúng tinh thần Hiến pháp 2013 và các điều ước quốc tế. Thứ hai, cần bổ sung nguyên tắc bảo đảm công khai, minh bạch thông tin và tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức nhân quyền trong quá trình áp dụng biện pháp khẩn cấp.

"Ngoài ra, cần quy định chặt chẽ hơn các điều kiện miễn trừ trách nhiệm để tránh lạm quyền, bảo đảm quyết định của người thực thi công vụ phải dựa trên căn cứ khách quan, không vì mục đích vụ lợi cá nhân. Những bổ sung này sẽ giúp Điều 3 hoàn thiện hơn, vừa bảo đảm kịp thời, hiệu quả ứng phó tình trạng khẩn cấp, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân", ĐBQH Nguyễn Thị Lan đề xuất.

Không "cứng nhắc" đối với những phát sinh từ thực tế

Riêng đối với các biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp, ĐBQH Nguyễn Thị Lan đánh giá những điều này quy định cụ thể các biện pháp ứng phó tùy từng loại tình trạng khẩn cấp như: Thảm họa lớn (thiên tai, ô nhiễm, sự cố bức xạ, hạt nhân); dịch bệnh; an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội... Mặt khác, các điều đều liệt kê danh mục biện pháp được áp dụng trong phạm vi tình trạng khẩn cấp và cho phép Thủ tướng Chính phủ áp dụng biện pháp ngoài danh mục (pháp luật chưa quy định), sau đó báo cáo cấp có thẩm quyền.

"Các quy định như trong dự thảo có tính linh hoạt cao, không “cứng nhắc,” cho phép Thủ tướng quyết định biện pháp bổ sung khi thực tế phát sinh; hài hòa giữa quy định chuyên ngành như phòng thủ dân sự, phòng chống dịch bệnh, an ninh, quốc phòng… và tình huống khẩn cấp", ĐBQH Nguyễn Thị Lan phân tích.

7e8f79c5bcef0bb152fe.jpg
Quang cảnh thảo luận Tổ 1, chiều 23/6

Tuy nhiên, để hoàn thiện thêm dự thảo, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét một số nội dung như việc cụ thể hóa tiêu chí áp dụng từng biện pháp, để tránh áp dụng tùy tiện. Điển hình như việc “cưỡng chế di dời người dân” chỉ áp dụng khi có đánh giá rủi ro thể hiện nguy hiểm tức thời và không còn phương án khác ít xâm hại hơn. Bên cạnh đó, với các biện pháp đặc biệt thường hạn chế quyền con người, vì vậy, cần quy định rõ thời hạn tối đa và phải được xem xét lại sau mỗi kỳ hạn cũng như quy định rõ thời hạn áp dụng từng biện pháp, kèm thủ tục gia hạn và nghĩa vụ báo cáo công khai...

"Chúng ta nên bổ sung quy định trách nhiệm giám sát của Quốc hội, HĐND, MTTQ hoặc tổ chức xã hội, kèm cơ chế xử lý vi phạm của người ra quyết định hoặc thi hành biện pháp quá mức , để tránh việc lạm quyền hoặc xử lý sai quy định. Việc áp dụng biện pháp đặc biệt cần minh bạch để tránh gây hoang mang và hiểu nhầm trong Nhân dân. Đồng thời, nên bổ sung quy định bắt buộc công khai các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp (trừ thông tin mật) trên phương tiện thông tin đại chúng và cổng thông tin điện tử Chính phủ", ĐBQH Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.

Liên quan đến việc cứu trợ, khắc phục hậu quả và nguồn lực, đại biểu cho rằng dự thảo đã đề cập đủ các nhóm vấn đề trọng yếu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu cơ chế giám sát độc lập và minh bạch quá trình cứu trợ, xử lý hậu quả. Ngoài ra, tại điều 19 hiện nay đang quy định tập trung chủ yếu vào vai trò của Chính phủ, các bộ ngành, địa phương, MTTQ Việt Nam và Hội Chữ thập đỏ... nhưng chưa nêu rõ cơ chế giám sát độc lập. "Chúng ta cần bổ sung quy định cụ thể về vai trò giám sát của các tổ chức xã hội, cơ quan kiểm toán độc lập, và công khai thông tin về danh sách nhà tài trợ, người nhận cứu trợ để bảo đảm minh bạch, tránh thất thoát và tham nhũng", ĐBQH Nguyễn Thị Lan kiến nghị.

Đáng chú ý, quy định trong dự thảo hiện chỉ nêu nguyên tắc chung về thống kê, đánh giá thiệt hại, chưa hướng dẫn cách xử lý tranh chấp và bồi thường thiệt hại tài sản. Do vậy, đại biểu cho rằng cần quy định rõ ràng tiêu chí, phương pháp thống kê thiệt hại và thời hạn xử lý bồi thường; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại, kèm cơ chế khiếu nại, giải quyết tranh chấp để tăng cường tính minh bạch, khách quan.

"Dự thảo cần quy định rõ Chính phủ, UBND các cấp có trách nhiệm báo cáo công khai tình hình phân bổ, sử dụng nguồn lực cứu trợ trên cổng thông tin điện tử và phương tiện thông tin đại chúng, kèm trách nhiệm giải trình của người có thẩm quyền", ĐBQH nêu quan điểm.

Duy trì an ninh quốc gia và bảo vệ quyền con người trong bối cảnh đặc biệt

Đồng quan điểm với ĐBQH Nguyễn Thị Lan, ĐBQH Hoà thượng Thích Bảo Nghiêm đánh giá Luật Tình trạng khẩn cấp là một bước tiến cần thiết để chủ động đối phó với rủi ro khẩn cấp trong thế kỷ 21, đặc biệt khi các mối đe dọa đang ngày càng đa dạng (dịch bệnh, khủng bố, thiên tai, an ninh mạng...). Đồng thời, dự thảo đã thể hiện sự công phu, có định hướng rõ ràng, và thể hiện sự chủ động lập pháp của Việt Nam trước các thách thức lớn trong tương lai.

"Luật Tình trạng khẩn cấp là luật mang tính nền tảng chiến lược, không chỉ để xử lý những tình huống đột xuất, mà còn nhằm bảo vệ trật tự Hiến pháp, duy trì ổn định xã hội, an ninh quốc gia và bảo vệ quyền con người trong bối cảnh đặc biệt", ĐBQH Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm nhấn mạnh.

1888eadf2ff598abc1e4.jpg
ĐBQH, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm phát biểu tại thảo luận tổ

Cũng theo ĐBQH, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm, Luật Tình trạng khẩn cấp đặt trọng tâm vào ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng, nhằm bảo vệ tính mạng và an toàn của con người, nhất là khi xảy ra hiểm họa lớn, luật này là phương tiện giúp Nhà nước chủ động cứu hộ, tránh thiệt hại lớn. Ngoài ra, trong tình huống khẩn cấp, nếu không có luật rõ ràng sẽ dễ phát sinh hỗn loạn, ích kỷ, tranh giành. Vì vậy, dự thảo luật giúp tổ chức xã hội vận hành trên nguyên tắc hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ nguồn lực, hy sinh cá nhân vì cộng đồng. Đồng thời, dự thảo luật còn khuyến khích mỗi công dân có trách nhiệm, ứng xử có trí tuệ trong khủng hoảng.

Tuy nhiên, dưới góc nhìn của mình, ĐBQH, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm cũng phân tích một số bất cập của dự thảo. Theo đó, việc thiếu định nghĩa rõ ràng về tình trạng khẩn cấp và các tiêu chí áp dụng có thể dẫn tới lạm dụng tình trạng khẩn cấp để hạn chế quyền con người một cách không cần thiết. Mặt khác, Luật Tình trạng khẩn cấp có nguy cơ chồng lấn hoặc mâu thuẫn với Luật Quốc phòng, Luật An ninh mạng, Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm..., điều này có thể gây khó khăn trong quá trình thực thi.

Đáng chú ý, ĐBQH, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm cho rằng, các tình huống khẩn cấp (thiên tai, an ninh mạng, khủng bố...) ngày càng phức tạp và khó đoán, nên việc quy định không linh hoạt hoặc quá cứng nhắc có thể khiến luật thiếu hiệu quả khi thực thi. Đặc biệt, việc thiếu rõ ràng về cơ chế phối hợp, tiêu chí ban bố tình trạng khẩn cấp theo cấp độ Trung ương hay địa phương có thể dẫn đến lúng túng trong xử lý tình huống thực tế.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Bảo vệ quyền con người trong bối cảnh đặc biệt
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO