Nắm chắc cái phổ biến và cái đặc thù
Vì thế, đổi mới, cải cách đối với chủ nghĩa xã hội càng là một nhu cầu, một tất yếu trong quá trình phát triển.
Nhưng, tiến hành theo phương pháp nào, cách thức tiến hành ra sao, lại là công việc riêng của mỗi nước và phải do Đảng Cộng sản và nhân dân nước đó tự quyết định. Với mục đích thống nhất nhưng sự lựa chọn những con đường, giải pháp khác nhau là hoàn toàn tự nhiên. Mọi sự dịch chuyển mô hình, kinh nghiệm một cách giáo điều chỉ đem lại sự thất vọng và việc “đốt cháy” thời gian một cách nóng vội sẽ chỉ dẫn đến hậu quả sai lầm. Nếu không xuất phát từ chính mình, với các truyền thống văn hóa, dân tộc, xã hội... để lựa chọn phương thức, con đường, tốc độ cải cách, đổi mới phù hợp thì không thể tiếp tục tiến lên. Chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được bất kỳ một sự giải phóng hiện thực nào, nếu sự giải phóng ấy không thực hiện trong thế giới hiện thực và bằng những phương tiện hiện thực ở mỗi nước.
Công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu lại là bằng chứng về sự "nhảy cực", tự "ly thân" với chủ nghĩa Mác - Lenin và với cả chính mình. Hậu quả là, chế độ XHCN ở các nước này bị sụp đổ. Nguyên nhân của sự đổ vỡ là do họ đã đi chệch khỏi những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội trên mọi bình diện, bằng cách từ bỏ những nguyên tắc sơ đẳng nhất của chủ nghĩa Mác - Lenin? Tại sao cái gọi là những cuộc cải cách lại phải được tiến hành theo hướng tư bản chủ nghĩa? Và, tại sao nó lại nhận được sự ủng hộ nhất loạt và mừng rỡ của các nhân vật lãnh đạo của chủ nghĩa tư bản?
Trong khi đó, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... tiến hành cải cách, đổi mới lại theo những mô thức, giải pháp khác. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc khẳng định: “người Trung Quốc nhìn nhận chủ nghĩa xã hội... và đang xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cách riêng của mình”, “Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là điều không ai lay chuyển được. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng là chủ nghĩa xã hội có đặc sắc Trung Quốc, là chủ nghĩa xã hội không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, là chủ nghĩa xã hội chủ trương hòa bình. Cuộc cải cách “vì chân lý và lẽ phải” ở Cuba được bứt phá từ điểm xuất phát năm 1993. Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước - một cuộc chuyển mình lịch sử “có ảnh hưởng vượt tầm quốc gia, gây ấn tượng cho cả thế giới”, mang “ý nghĩa siêu quốc gia”.
Thực tiễn các nước XHCN 30 năm sau năm 1991 càng cho thấy, những kết quả trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phụ thuộc rất cơ bản vào việc kết hợp đúng đắn cái phổ biến và cái đặc thù trong sự phát triển xã hội. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ngày càng đa dạng và hiệu quả nhưng phải tuân theo những quy luật chung một cách thống nhất; đồng thời, sự tác động của những quy luật chung chi phối các hình thức khác nhau có ý nghĩa cơ bản và quyết định. Nếu không lựa chọn đúng các bước đi thích hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước thì không thể thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đảng ta tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn; kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh”(13) .
Bản chất chung và những quy luật chung của chủ nghĩa xã hội trong những trường hợp khác nhau, cần phải được thực hiện một cách khác nhau thông qua những con đường khác nhau phù hợp với khuôn khổ, điều kiện và thời gian khác nhau, trên cơ sở lịch sử và sự tồn tại của các nước không giống nhau nằm trong tiến trình thúc đẩy sự phát triển độc lập của chủ nghĩa xã hội khoa học ở từng nước.
Kiên định, trung thành và đổi mới, sáng tạo
K.Marx, F.Angel, V.I.Lenin không phải là những “nhà tiên tri” (!), những ông “thày bói của lịch sử” (!). Các ông là những nhà cách mạng một cách khoa học, như bất cứ ai đều thấy. Chủ nghĩa xã hội mà các ông phát hiện và đấu tranh không mệt mỏi để thực hiện nó, là hành động một cách dũng cảm và cách mạng biến cái logic phát triển tất yếu của nhân loại, trên cơ sở giải phẫu các xã hội mà loài người đã và đang tồn tại, để các quốc gia, dân tộc hiện thực hóa và đi tới tương lai. Và, lý luận của các ông chỉ giúp loài người lựa chọn điều cần và phải đi con đường dẫn tới chân lý, với những lực lượng tiên quyết, những điều kiện có tính chất cần và đủ, khi đứng ở ngã ba lịch sử của sự lựa chọn và phải quyếtđịnh, gồm: một ngả dẫn đến vũng lầy của sự lầm lẫn, còn ngả kia là đi tới chân trời sáng sủa, tất yếu.
Đặc biệt, trong thời điểm lịch sử ở vào tình thế có tính bước ngoặt hiện nay, khi toàn cầu hóa trở thành xu thế với xung lực tất yếu và mạnh mẽ là kinh tế tri thức, công việc đó càng trở nên khó khăn gấp bội; và cho thấy, sẽ chỉ “sống sót” những lực lượng chính trị nào có thể đáp lại những thách thức mới của thời đại, tiếp tục đủ sức gánh vác trọng trách đó của lịch sử mà thôi. Các nước XHCN ở châu Âu tan rã. Các nước XHCN ở châu Á và châu Mỹ La-tinh vượt qua cơn khủng hoảng, “động đất lịch sử” và tiếp tục phát triển. Nhưng, không phải vì thế có thể ngồi đó trông đợi vào “sự màu nhiệm” của chủ nghĩa Mác - Lenin bằng sự tưởng tượng và tụng niệm; ảo vọng về sự tự động phục hưng của phong trào XHCN, mà trái lại.
Sự trung thành, kiên định với K.Marx, với V.I.Lenin quyết không phải là sự thuộc lòng học thuyết của các ông và coi nó như “chiếc chìa khóa vạn năng” nào đó, bất chấp những sự thay đổi của lịch sử. Như thế, vô hình đã bóp nghẹt sức sống của chủ nghĩa Mác - Lenin, mơ mộng coi chủ nghĩa xã hội là tiên thiên, định mệnh! Cả hai thái cực cảnh báo, rằng nếu coi chủ nghĩa Mác - Lenin là “nhất thành bất biến”, vô hình trung biến lý luận thành một lược đồ cứng nhắc, sẽ tước đi ở nó khả năng tự phát triển; và rằng, nếu rơi vào cơ hội chủ nghĩa hoặc thực dụng chủ nghĩa sẽ thủ tiêu tính cách mạng thực tiễn của nó đối với lịch sử, với tư cách là một cương lĩnh hành động. Như thế, nhất định sẽ thất bại.
Đảng ta chỉ rõ: “trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng(14). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kiến giải một cách hệ thống, sâu sắc khẳng định và khẳng định: “vì sao Đảng ta kiên định chủ nghĩa Mác - Lenin”(15).
Do đó, phát triển một cách sáng tạo và phải đối xử với nó một cách khoa học với tư cách là một khoa học là một trong những sứ mệnh của chúng ta trong công cuộc bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lenin - học thuyết cách mạng phê phán và tự phê phán mang tính cách mạng! Kể từ “cuộc động đất lịch sử” của chủ nghĩa xã hội thế giới năm 1991, các nước XHCN đã và đang mở ra những con đường cần phải đi, mục tiêu cần phải đến; đến lượt những ai công kích, thù địch với K.Marx, với V.I. Lenin… đã thấy các ông đương sống một cách không gì phủ nhận được, lại thấy chủ nghĩa xã hội ở châu Á, khu vực Mỹ La-tinh phát triển một cách mạnh mẽ, không gì cưỡng được. Đó là logic vận động khách quan đồng thời là động lực căn bản tất yếu của lịch sử thế giới trong thời đại hiện nay; đến lượt nó, của chính chủ nghĩa Mác - Lenin. Từ thực tiễn, nó ngày càng chứng tỏ với tư cách không chỉ là một nền tảng tư tưởng về phương diện chính trị - xã hội, một cương lĩnh chính trị - khoa học về mặt hành động cách mạng, một chỉnh thể toàn vẹn về mặt cấu trúc hệ thống, một thực thể vận động và thống nhất về bình diện khoa học - thực tiễn mà còn là một lý thuyết - thực tiễn mở về phương diện xã hội - lịch sử và là một tổng thể phương pháp luận khoa học và cách mạng, như chính học thuyết Mác - Lenin chứa đựng và thể hiện. Sự kết tinh những tư cách và phẩm chất đó, chủ nghĩa Mác - Lenin, tự nó là một khoa học mang tính cách mạng sâu sắc và triệt để. Kiên định với chủ nghĩa Mác - Lenin cũng chính là phải không ngừng phát triển nó bằng thực tiễn cách mạng sáng tạo; đồng thời, tỉnh táo chống lại một cách kịp thời và hiệu quả mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại làm vấy bẩn, méo mó và xuyên tạc nó.
Đó cũng chính là mục đích, là con đường, môi trường, bước đi và thước đo hiệu quả; đồng thời, là thách thức, vận hội phát triển, chân trời của sự sáng tạo nhằm xây dựng hệ thống lý luận thực sự trở thành nhân tố dẫn dắt thực tiễn sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong thế kỷ XXI. Và, chính từ sự phát triển phức tạp và khó khăn của thực tiễn cách mạng lại cho thấy, không gì có thể thực tiễn hơn, khi chúng ta có một lý luận khoa học và cách mạng dẫn đường, trên cơ sở tổng kết thực tiễn một cách toàn diện và nghiêm khắc. Chỉ có xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức tốt thực tiễn, kịp thời và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng là con đường duy nhất đúng để phát triển và bảo vệ lý luận cách mạng, mới tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng phát triển.
Đó chính là trọng trách “tổng kết thực tiễn - một nhiệm vụ trọng yếu của công tác lý luận hiện nay”(16), với phương châm “đổi mới tư duy, đi sâu vào tổng kết thực tiễn là khâu đột phá của Đảng trong công tác lý luận”(17) - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu.
Giữ vững nguyên tắc XHCN và đổi mới sáng tạo
Sau 10 năm đổi mới, nếu năm 1996, “Đại hội VIII của Đảng mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước”(18) thì qua 35 năm đổi mới với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử không thể phủ nhận càng chứng thực nhận định đúng đắn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngay từ năm 2002: “đổi mới - quy luật và nhu cầu phát triển của đất nước”(19). Một trong những nguyên nhân thành công là nhất định phải tôn trọng và tuân thủ “Những trật tự có tính nguyên tắc trong quá trình đổi mới”(20).
Với tư cách là đảng cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội trong điều kiện khó khăn của đất nước và tình hình quốc tế có nhiều biến động nhanh chóng và phức tạp, từ kinh nghiệm lịch sử cách mạng, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước”(21) và nhấn mạnh: sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới. Đó vừa là quy luật vừa là nhu cầu phát triển của đất nước.
Kế thừa thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, hệ quan điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc được khẳng định và khắc sâu tại Đại hội XIII của Đảng: kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Cốt lõi của quan điểm đó gồm bốn nhân tố, là sự kết hợp khoa học giữa nền tảng tư tưởng chính trị, mục tiêu lý tưởng, đường lối của Đảng với tinh thần không ngừng đổi mới, sáng tạo tuân theo các tính quy luật và quy luật phát triển tất yếu một cách độc lập, cụ thể và sinh động. Kiên định giữ vững các nguyên tắc chỉ đạo đó, đòi hỏi Đảng phải trung thành một cách độc lập, sáng tạo và sự độc lập, sáng tạo một cách thật sự trung thành. Nếu không kiên định đứng vững trên nền tảng tư tưởng chính trị là chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì nguy cơ mất phương hướng chính trị, không thể thực hiện lý tưởng và con đường XHCN đúng đắn, càng không thể thực thi đổi mới, sáng tạo, vì chủ nghĩa xã hội. Và, ngược lại, càng muốn tiến hành thành công công cuộc đổi mới với quy mô mới, tốc độ mới và chất lượng mới càng phải trở về, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách độc lập, sáng tạo và thành tâm ở trình độ mới, làm phong phú và đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng thế giới từ và bằng thực tiễn Việt Nam. Đó chính là lý do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định dứt khoát khi kiến giải “Vì sao Đảng ta kiên định chủ nghĩa Mác - Lenin?” và chỉ đạo tiếp tục kiên định bảo vệ và phát triển sáng tạo “Giá trị bền vững của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội”(22).
Đổi mới một cách có nguyên tắc, tức là phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, từ những bài học tổng kết kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn, hướng vào giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong công cuộc đổi mới. Kiên định là giữ vững ý chí, không ngả nghiêng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Kiên định không đồng nghĩa với bảo thủ, cứng nhắc, càng không được giáo điều phiến diện, cực đoan, chủ quan, duy ý chí. Trong khi kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, mang ý nghĩa sống còn, nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đường lối đổi mới; những nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng phải luôn luôn đổi mới, phát triển sáng tạo một cách phù hợp với thực tiễn. Đó là phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Kiên định, nếu không phát triển sáng tạo thì không thể thành công, là vô hình cô lập hóa sự kiên định, tước đi sức sống vốn có của sự kiên định. Nếu rơi vào vô nguyên tắc càng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, “đổi màu”, thậm chí chệch hướng và không thể cứu vãn được. Vì vậy, kiên định phải gắn liền và song hành với vận dụng, phát triển sáng tạo; vận dụng và phát triển sáng tạo phải gắn chặt và đứng vững trên nền móng kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới.
Do đó, nắm chắc tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhất định càng phải nắm vững thực tiễn cách mạng và thực tiễn phát triển khoa học, phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sức mạnh của nhân dân. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “… điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lenin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những nhà cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(23).
Từ tầm cao và ý nghĩa sâu sắc của Đại hội lần thứ XIII của Đảng, bằng nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu trên các phương diện khác nhau, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo giải quyết toàn diện các vấn đề khoa học cơ bản và chủ yếu về công cuộc đổi mới mà nhân tố giữ vai trò quyết định thành công là nâng cao địa vị cầm quyền, sức mạnh và uy tín lãnh đạo của Đảng gắn liền với quá trình tự đổi mới, tự chỉnh đốn chính bản thân Đảng. Đồng thời, trong tiến trình lãnh đạo thực thi công cuộc đổi mới, với tư cách là Đảng cầm quyền, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định những vấn đề mang tầm chỉ đạo vĩ mô: “Về phương hướng phát triển đất nước trong thời kỳ mới”, “Định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, “Đổi mới sâu sắc để tiếp tục tiến lên”(24)… làm nền tảng tư tưởng chính trị và mang ý nghĩa phương pháp luận trong toàn bộ quá trình tìm tòi, khám phá sáng tạo xây dựng đường lối đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng.
Tầm cỡ, quy mô, tốc độ và chiều sâu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước, trong bối cảnh thời đại hiện nay, đòi hỏi nghiêm ngặt Đảng phải “giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Trong đó, nguyên tắc tối cao là bảo vệ triệt để lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Không thể có “hội nhập”, không thể có “mở cửa” đúng đắn nếu không bảo vệ được độc lập, chủ quyền quốc gia, không giữ vững được định hướng XHCN.
(13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 69.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 70.
(15) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Sđd, tr.256.
(16) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Sđd, tr. 320.
(17) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Sđd, tr. 326.
(18) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.11.
(19) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước, Sđd, tr. 121.
(20) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên): Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 10.
(21) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Sđd, tr. 36.
(22) Nguyễn Phú Trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước, Sđd, tr. 413.
(23) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2022, tr. 37-38.
(24) Nguyễn Phú Trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước, Sđd, tr. 36.